1. Hoàn
cảnh sáng tác :
- Việt Bắc là quê hương cách mạng,
là căn cứ địa vững chắc của cuộc kháng chiến, nơi đã che chở đùm bọc cho Đảng,
Chính Phủ, bộ đội trong suốt những năm kháng chiến chống Pháp gian khổ.
- Sau chiến thắng Điện Biên Phủ,
tháng 7 năm 1954, Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương được kí kết, hòa bình trở
lại, miền Bắc nước ta được giải phóng.
- Tháng 10 năm 1954, các cơ quan
Trung ương của Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về thủ đô Hà Nội.
- Một trang sử mới của đất nước và
một giai đoạn mới của cách mạng được mở ra. Nhân sự kiện trọng đại này, Tố Hữu
viết bài thơ Việt Bắc.
- Bài thơ được trích trong tập Việt Bắc (1947 - 1954)
2. Lời
Việt Bắc đối với người cán bộ cách mạng
Mở đầu là một
câu hỏi ngọt ngào bâng khuâng:
Mình về mình …nhìn sông nhớ nguồn
Tố Hữu đã khơi rất sâu vào nguồn mạch đạo
lý ân nghĩa thủy chung của dân tộc để thể hiện tình cảm cách mạng. Mười lăm
năm ấy là trở về với cội nguồn những năm tiền khởi nghĩa sâu nặng biết bao ân
tình. 4 câu thơ điệp lại 4 chữ mình, 4 chữ nhớ, 1 chữ ta hòa quyện 1 câu hỏi về
thời gian (10 năm...) một câu hỏi về không gian (nhìn cây...). Khổ thơ ngắn
nhưng đã dồn góp lại cả một thời cách mạng. Tấm lòng người ở đã tỏ lộ giãi bày
trong không gian, theo thời gian.
Tiếng ai tha thiết …nói gì hôm nay...
Quyến luyến không nỡ rời, xúc động nghẹn
ngào nói không nên lời, tình cảm cồn cào bối rối ấy làm thay đổi cả nhịp thơ.
Tiết tấu 2/2 của nhịp lục bát bỗng xao động trong nhịp 3/3/2 diễn tả thật đắt
tấm lòng người đi với người ở lại. Dấu chấm lửng như khoảng trống khó lấp
đầy, sự im lặng hàm chứa bao xao xuyến không lời.
Mình đi có nhớ những ngày
….. Tân Trào, Hồng Thái,
mái đình cây đa.
Có câu hỏi cụ thể : nhớ Tân Trào, Hồng Thái, trám bùi, măng mai;
có câu hỏi trừu tượng: chiến khu, mối
thù, lòng son...;phép tiểu đối 4/4 (hắt
hiu lau xám > < đậm đà lòng son). Tất cả, đã giúp Tố Hữu diễn tả thật
đắt nỗi xao xuyến nhớ thương của người ở với người đi. Đặc biệt câu thơ lục
bát cuối khổ:
Mình đi mình có nhớ mình
Tân Trào Hồng Thái, mái đình, cây đa
Ba chữ mình trong câu thơ 6 chữ đồng nhất tâm sự người đi, người ở
đã tạo ra sự hô ứng đồng vọng giữa người hỏi, người đáp, hòa thành bản hợp ca
ngân vang những hòa âm tâm hồn. 12 câu cấu tạo thành 6 câu hỏi, mỗi câu thơ đều
khắc khoải tâm tình da diết, khắc khảm vào lòng người đi những kỉ niệm từ ngày
đầu cách mạng. Mái đình Hồng Thái, Cây đa Tân Trào được chuyển vế thành Tân Trào, Hồng Thái mái đình, cây đa
mang đến cho ta một liên tưởng: Việt Bắc đã thật sự trở thành quê hương thứ
hai của người cán bộ miền xuôi. Bởi hình ảnh mái đình, cây đa ở đâu và khi nào cũng khơi gợi trong tâm hồn người
Việt hình ảnh quê hương.
3.
Lời người cán bộ cách mạng
Ta với mình, mình với ta
… Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình
bấy nhiêu
Cách nói mình –ta của ca dao dân ca, điệp từ mình cùng với biện pháp nghệ thuật so sánh nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu khẳng định lòng thủy
chung son sắt với cách mạng, với quê hương kháng chiến của người cán bộ vê
xuôi.
Nhớ gì như nhớ người yêu
… Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy
- Hình ảnh so
sánh như nhớ người yêu thể hiện sự
gắn bó tha thiết trong tình cảm.
- Hình ảnh gợi cảm đầy thi vị
:bản khói cùng sương, bếp lửa, trăng lên đầu núi… gợi nhớ những nét mang đậm
hồn người.
Ta đi ta nhớ những ngày
…Chày đêm nện cối đều đều suối xa
- Hình ảnh đắng cay ngọt bùi, thương nhau chia củ sắn
lùi, bát cơm xẻ nửa chăn sui đắp cùng là hình ảnh đậm đà giai cấp. (Người
Việt Bắc trong nỗi nhớ người về thật đáng yêu, đáng quý, nặng tình nặng nghĩa,
biết chia sẽ ngọt bùi.
* Bức tranh tứ bình:
Ta về mình có nhớ ta
….
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
a. Đoạn này được xem là
đặc sắc nhất Việt Bắc. 10 câu lục bát thu gọn cả sắc màu 4 mùa, cả âm thanh
cuộc sống, cả thiên nhiên con người Việt Bắc.
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Tố Hữu lựa chọn thật đắt
hình ảnh đối xứng : hoa - người. Hoa là vẻ đẹp tinh tuý nhất của thiên nhiên,
kết tinh từ hương đất sắc trời, tương xứng với con người là hoa của đất. Bởi
vậy đoạn thơ được cấu tạo: câu lục nói đến thiên nhiên, câu bát nói tới con
người. Nói đến hoa hiển hiện hình người, nói đến người lại lấp lóa bóng hoa.
Vẻ đẹp của thiên nhiên và con người hòa quyện với nhau
tỏa sáng bức tranh thơ. Bốn cặp lục bát tạo thành bộ tứ bình đặc sắc.
b. Trước hết đó là nỗi
nhớ mùa đông Việt Bắc - cái mùa đông
thuở gặp gỡ ban đầu, đến hôm nay vẫn sáng bừng trong kí ức.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Câu thơ truyền thẳng đến
người đọc cảm nhận về một màu xanh lặng lẽ, trầm tĩnh của rừng già. Cái màu
xanh ngằn ngặt đầy sức sống ngay giữa mùa đông tháng giá. Cái màu xanh chứa
chất bao sức mạnh bí ẩn “Nơi thiêng liêng rừng núi hóa anh hùng”. Màu xanh núi
rừng Việt Bắc:
Rừng giăng thành lũy thép dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
Trên cái nền xanh ấy nở
bừng bông hoa chuối đỏ tơi, thắp sáng cả cánh rừng đại ngàn làm ấm cả không
gian, ấm cả lòng người. Hai chữ “đỏ tươi” không chỉ là từ ngữ chỉ sắc màu, mà
chứa đựng cả một sự bừng thức, một khám phá ngỡ ngàng, một rung động rất thi
nhân.
Có thể thấy cái màu đỏ
trong câu thơ Tố Hữu như điểm sáng hội tụ sức mạnh tiềm tàng chốn rừng xanh
đại ngàn, lấp lóa một niềm tin rất thật, rất đẹp. Trên cái phông nền hùng vĩ và
thơ mộng ấy, hình ảnh con người xuất hiện thật vững trãi, tự tin. Đó là vẻ đẹp
của con người làm chủ núi rừng, đứng trên đỉnh trời cùng tỏa sáng với thiên
nhiên, “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”.
c. Cùng với sự chuyển mùa
(mùa đông sang mùa xuân) là sự chuyển màu trong bức
tranh thơ: Màu xanh trầm tĩnh của rừng già chuyển sang màu trắng tinh khôi của
hoa mơ khi mùa xuân đến. Cả không gian sáng bừng lên sắc trắng của rừng mơ lúc
sang xuân.
Ngày xuân mơ
nở trắng rừng
Trắng cả không gian
“trắng rừng”, trắng cả thời gian “ngày xuân”. Hình ảnh này khá quen thuộc trong
thơ Tố Hữu, hình ảnh rừng mơ sắc trắng cũng đi vào trờng ca Theo chân Bác gợi tả mùa xuân rất đặc trưng
của Việt Bắc:
Ôi sáng xuân nay xuân 41
Trắng rừng biên giới nở
hoa mơ
Cái sắc trắng tinh khôi
bừng nở mỗi độ xuân về làm ngơ ngẩn người ở, thẫn thờ kẻ đi. Người đi không
thể không nhớ sắc trắng hoa mơ nơi xuân rừng Việt Bắc, và lại càng không thể
không nhớ đến con người Việt Bắc, cần cù uyển chuyển trong vũ điệu nhịp nhàng
của công việc lao động thầm lặng mà cần mẫn tài hoa:
Nhớ người đan nón chuốt
từng sợi giang
Hai chữ “chuốt từng” gợi
lên dáng vẻ cẩn trọng tài hoa, dường như bao yêu thương đợi chờ mong ngóng
đã gửi vào từng sợi nhớ, sợi thương kết nên vành nón. Cảnh thì mơ mộng, tình
thì đợm nồng. Hai câu thơ lưu giữ lại cả khí xuân, sắc xuân, tình xuân vậy.
Tài tình như thế thật hiếm thấy.
d. Bức tranh thơ thứ 3
chuyển qua rừng phách - một loại cây rất thường gặp ở Việt Bắc hơn bất cứ nơi
đâu. Chọn phách cho cảnh hè là sự lựa chọn đặc sắc, bởi trong rừng phách nghe
tiếng ve ran, ngắm sắc phấn vàng giữa những hàng cây cao vút, ta như cảm thấy
sự hiện diện rõ rệt của mùa hè. Thơ viết mùa hè hay xưa nay hiếm, nên ta càng
thêm quí câu thơ của Tố Hữu:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Ở đây có sự chuyển đổi
cảm giác rất thú vị: Tiếng ve kêu - ấn tượng của thính giác đã đem lại ấn tượng
thị giác thật mạnh. Sự chuyển mùa được biểu hiện qua sự chuyển màu trên thảo
mộc cỏ cây: Những ngày cuối xuân, cả rừng phách còn là màu xanh, những nụ hoa
còn náu kín trong kẽ lá, khi tiếng ve đầu tiên của mùa hè cất lên, những nụ hoa
nhất tề đồng loạt trổ bông, đồng loạt tung phấn, cả rừng phách lai láng sắc
vàng. Chữ đổ được dùng thật chính
xác, tinh tế. Nó vừa gợi sự biến chuyển mau lẹ của sắc màu, vừa diễn tả tài
tình từng đợt mưa hoa rừng phách khi có ngọn gió thoảng qua, vừa thể hiện
chính xác khoảng khắc hè sang. Tác giả sử dụng nghệ thuật âm thanh để gọi dậy
màu sắc, dùng không gian để miêu tả thời gian. Bởi vậy cảnh thực mà vô cùng
huyền ảo.
Trên nền cảnh ấy, hình
ảnh cô em gái hiện lên xiết bao thơ mộng, lãng mạn: “Cô em gái hái măng một
mình” nghe ngọt ngào thân thơng trìu mến. Nhớ về em, là nhớ cả một không gian
đầy hương sắc. Người em gái trong công việc lao động hàng ngày giản dị: hái măng.
Vẻ đẹp lãng mạn thơ mộng ấy còn được tô đậm ở hai chữ “một mình” nghe cứ xao
xuyến lạ, như bộc lộ thầm kín niềm mến thương của tác giả. Nhớ về em, nhớ về
một mùa hoa...
e. Khép lại bộ tứ bình là
cảnh mùa thu. Đây là cảnh đêm thật phù hợp với khúc hát giao duyên trong thời
điểm chia tay giã bạn. Hình ảnh ánh trăng dọi qua kẽ lá dệt lên mặt đất một
thảm hoa trăng lung linh huyền ảo.
Dưới ánh trăng thu,
tiếng hát ân tình càng làm cho cảnh thêm ấm áp tình người. Đại từ phiếm chỉ
“ai” đã gộp chung người hát đối đáp với mình làm một, tạo một hòa âm tâm hồn
đầy bâng khuâng lu luyến giữa kẻ ở, ngời đi, giữa con người và thiên nhiên.
g. Mỗi câu lục bát làm
thành một bức tranh trong bộ tứ bình. Mỗi bức tranh có vẻ đẹp riêng hòa kết bên
nhau tạo vẻ đẹp chung. Đó là sự hài hòa giữa âm thanh, màu sắc... Tiếng ve của
mùa hè, tiếng hát của đêm thu, màu xanh của rừng già, sắc đỏ của hoa chuối,
trắng tinh khôi của rừng mơ, vàng ửng của hoa phách... Trên cái nền thiên nhiên
ấy, hình ảnh con người hiện lên thật bình dị, thơ mộng trong công việc lao
động hàng ngày.
4. Nhớ Việt Bắc kháng chiến, Việt Bắc anh hùng :
- Nhịp thơ sôi nổi náo nức gợi lên
khung cảnh những ngày kháng chiến chống Pháp thật hào hùng nó được vẽ bằng bút
pháp tráng ca.
- Hình ảnh Việt Bắc sôi động trong
những ngày chuẩn bị kháng chiến để đi đến thắng lợi cuối cùng.
- Đoạn cuối: khẳng định vị trí
quan trọng của VB lòng tin của toàn dân đối với BH ,khẳng định tình cảm thủy chung đối với quê
hương cách mạng.
- Điệp từ nhớ: với những sắc thái
khác nhau theo
cấp độ tăng dần
thể hiện tình cảm lưu luyến, nỗi nhớ da diết theo đó cũng được nâng cao.
5. Kết luận:
Tiếng thơ trữ tình chính
trị của Tố Hữu đã mượn đợc hình thức cấu tứ giã bạn, kết cấu theo lối đối đáp
giao duyên và thể loại lục bát đậm đà tính dân tộc. Nhờ vậy Tố Hữu đã thơ hoá
sự kiện chính trị một cách hiệu quả
không ngờ. Những câu thơ cân xứng trầm bổng, ngọt ngào vừa thể hiện được tình
cảm đối với cách mạng, vừa nói được vấn đề rất to lớn của thời đại, vừa chạm
được vào chỗ sâu thẳm trong tâm hồn dân tộc: truyền thống ân nghĩa, thủy
chung. Việt Bắc đã đạt tới tính dân tộc, tính đại chúng. Đó là sức sống trường
tồn của bài thơ.