Ví dụ 1: - Bài tập:
Viết một đoạn văn phân tích giá trị gợi hình và biểu
cảm của hai hình ảnh thơ song đôi trong khổ thơ sau:
“ Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy quang lưng.
Mùa xuân người ra đồng,
Lộc
trải đầy nương mạ”.
(“
Mùa xuân nho nhỏ”- Thanh Hải)
-
Đoạn văn minh hoạ:
“ Mùa xuân
nho nhỏ” là bài thơ ngũ ngôn trường
thiên của Thanh Hải ra đời vào những ngày tháng cuối năm 1980. Nó được phổ nhạc
thành ca khúc mùa xuân làm xao xuyến và say đắm lòng người. Bài thơ có những
hình ảnh xuân của thiên nhiên, của đất nước, của con người thật đẹp, trong đó
có bốn câu thơ nói về mùa xuân sản xuất và chiến đấu của nhân dân ta. Cấu trúc
thơ song hành đối xứng để chỉ rõ hai nhiệm vụ chiến lược ấy:
“ Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy quang lưng.
Mùa xuân người ra đồng,
Lộc
trải đầy nương mạ”.
“ Lộc” là chồi non, cành biếc mơn mởn. Khi
mùa xuân về cây cối đâm chồi nảy lộc. “ Lộc”
trong văn cảnh này tượng trưng cho vẻ đẹp mùa xuân và sức sống mãnh liệt của
đất nước. Người lính khoác trên lưng vành lá nguỵ trang xanh biếc, mang theo
sức sống mùa xuân, sức mạnh của dân tộc để bảo vệ Tổ quốc. Người nông dân, đem
mồ hôi và sức lao động cần cù làm nên màu xanh cho ruộng đồng, “ trải dài nương mạ” bát ngát quê hương. Ý
thơ vô cùng sâu sắc: máu và mồ hôi của
nhân dân đã góp phần tô điểm mùa xuân và để giữ lấy mùa xuân mãi mãi.
Ví
dụ 2:- Bài tập: Viết đoạn văn
diễn dịch trong đó có câu ghép (gạch chân câu ghép đó): phân tích khổ thơ đầu
bài thơ “ Sang thu” của hữu Thỉnh:
“
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về”.
- Đoạn văn
minh hoạ: “ Từ chiến hào tới
thành phố” là tập thơ – đoá hoa đầu mùa của Hữu Thỉnh, xuất bản vào tháng
5.1985. Cái duyên của nhà thơ- người lính lái xe thiết giáp này thể hiện khá
đậm đà ở một số bài thơ ngũ ngôn, trong đó có bài “ Sang thu”. Mở đầu bài thơ là một nét chớm thu nơi đồng quê êm đềm, dịu
dàng và thơ mộng được cảm nhận và diễn tả một cách tinh tế, tài hoa:
“
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về”.
Mùa thu là mùa đẹp nhất, đáng yêu nhất. nắng vàng
tươi, trời xanh trong bao la. Có trăng sáng, có gió mát. Nhiều thi sĩ xưa nay
đã nói thật hay, thật đẹp về thu:
“ Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng”
(Nguyễn Du)
‘ Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu”
(Nguyễn Khuyến)
Hữu Thỉnh cũng góp cho thơ thu dân tộc một nét thu:
đất trời, quê hương ngày đầu thu, buổi chớm thu. Hình như đã nhiều ngày đêm chờ
mong thu về, sớm nay nhà thơ khẽ reo lên:
“ Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió thu”
Mùa thu là mùa của trái chín: chuối tiêu trứng cuốc,
chuối ngự vàng khươm, trái hồng đỏ mọng,…Hương vị thu là “ hương cốm mới”, là hương thơm ngọt ngào của trái cây. Với HữuThỉnh,
cái tín hiệu báo mùa thu đang tới là hương ổi nơi vườn quê; cái hương thơm nồng
nàn ấy, thân thuộc ấy đang “ phả vào
trong gió se”. Gió thu lành lạnh, khô khô, se se . Hương ổi toả ra nồng nàn
như “ phả” vào cảnh vật, được gió thu
mang đi, làm ngây ngất hồn người. Hương ổi là một thi liệu độc đáo thể hiện bút
pháp nghệ thuật Hữu thỉnh. Chữ “ bỗng”
trong câu thơ “ Bỗng nhận ra hương ổi” diễn tả sự ngạc nhiên, niềm
vui bất ngờ chợt đến, mới cảm nhận được, mới phát hiện ra. Không chỉ là hương
ổi, là gió se, tín hiệu sang thu còn có sương thu:
“ Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về”
Hai chữ “ chùng
chình” đã nhân hoá sương thu. Sương thu ngập ngừng vấn vương, chờ đợi… một
chút gì bang khuâng. Nhìn thấy sương trắng nhạt phủ mờ ngõ nhỏ, nhà thơ cảm
thấy thu đã về. Hai chữ “ hình như” là phỏng đoán, nửa tin nửa ngờ. Nhà thơ cảm nhận bước đi của mùa thu
trong khoảnh khắc chớm thu không chỉ bằng khứu giác (nhận ra hương ổi), không
chỉ bằng xúc giác (gió se), bằng thị giác (sương chùng chình qua ngõ) mà còn
bằng tất cả sự rung động của tâm hồn, linh hồn. Bâng khuâng, rạo
rực, rung động và xôn xao. Không gian
nghệ thuật, thời gian nghệ thuật và tâm trạng nghệ thuật đồng hiện khá tinh tế,
đầy chất thơ.
Mô
hình cấu trúc đoạn văn : Đoạn văn diễn dịch:
-
Câu chủ đề: “ Mở đầu bài thơ …tinh tế, tài hoa” nêu đặc sắc khổ thơ.
- Các câu khai triển phân tích cảm
nhận những đặc sắc đó.
Câu
ghép được gạch chân.
Ví dụ
3:- Bài tập: Viết một đoạn
văn phát biểu cảm nhận của em về tình mẹ qua đoạn thơ sau trong bài thơ “ Con cò” của Chế Lan Viên (trong đó,
kết thúc đoạn là một câu hỏi tu từ):
“Ngủ yên! Ngủ yên! Ngủ yên!
Cành có mềm,mẹ đã sẵn tay nâng!
Trong lời ru của mẹ thấm hơi xuân!
Con chưa
biết con cò, con vạc
Con chưa biết những cành mềm mẹ hát
Sữa mẹ
nhiều, con ngủ chẳng phân vân.”
- Đoạn văn minh hoạ:
Tình
mẫu tử thiêng liêng tự cổ chí kim là đề tài muôn thuở của các văn nhân, thi sĩ.
Mỗi tác giả khai thác đề tài này ở những khia cạnh khác nhau. Chế Lan Viên với
bài thơ “ Con cò” đã nói về sự nâng
đỡ dịu dàng và bền bỉ của người mẹ đối với các con. Bài thơ mở đầu là lời ru
của mẹ bên nôi, đưa con vào giấc nhủ êm đềm, chập chờn cánh cò, cánh vạc trong
ca dao xưa…rồi hình ảnh cò mẹ lặn lội kiếm ăn ban đêm để nuôi đàn con bé bỏng,
chẳng may “ đậu phải cành mềm, lộn cổ
xuống ao”…lời ru của mẹ chứa đựng nỗi ngậm ngùi xót thương cho những thân
phận vất vả, nhọc nhằn trong cuộc sống thời xưa. Ngắm nhìn con ngủ say, mẹ càng
thấy con của mẹ may mắn được sống đầy đủ, no ấm trong vòng tay mẹ:
“Ngủ yên! Ngủ
yên! Ngủ yên!
Cành có mềm,mẹ
đã sẵn tay nâng!
Trong lời ru
của mẹ thấm hơi xuân!
Con chưa biết
con cò, con vạc
Con chưa biết những cành mềm mẹ hát
Sữa mẹ
nhiều, con ngủ chẳng phân vân.”
Mẹ đã dành cho con thơ tất cả:
cánh tay dịu hiền của mẹ, lời ru câu hát êm đềm của mẹ, dòng sữa ngọt ngào của
mẹ. những hoán dụ nghệ thuật ấy đã hình tượng hoá tình mẫu tử bao la. Nhịp thơ
cũng là nhịp võng, nhịp cánh nôi nhẹ đưa, vỗ về. Điệp ngữ “ngủ yên”, “ con chưa biết”
và “con cò” láy đi láy lại nhiều lần
làm cho giọng thơ trở nên đầm ấm, ngọt ngào, tha thiết dìu dịu chan chứa hạnh
phúc yêu thương. Lời ru đậm đà tình nghĩa, ẩn chứa lời dạy về đạo lí làm người,
qua âm hưởng, nhịp điệu trầm bổng theo tháng ngày mà thấm vào máu thịt, vào tâm
hồn của đứa con yêu. Đọc những câu thơ
như thế, ai mà không xúc động trước tình mẹ mênh mông như biển rộng, bất tận
như suối nguồn?
Câu
kết đoạn là câu hỏi tu từ.
Ví dụ 4: Bài tập:Viết một đoạn văn quy nạp nêu cảm nhận của em về đoạn văn
miêu tả tâm lí nhân vật ông Hai (trong “ Làng” của Kim Lân) khi nghe tin làng
Chợ Dầu theo giặc.
-
Đoạn văn minh hoạ:
Trong lúc ông Hai đang hồ hởi với những chiến tích
kháng chiến, những gương dũng cảm anh hùng của quân và dân ta thì ông như bị
sét đánh về cái tin “dữ” cả làng Chợ
Dầu “Việt gian theo Tây”… “vác cờ thần ra
hoan hô” lũ giặc cướp! Ông tủi nhục cúi gằm mặt xuống mà đi, nằm vật ra
giường như bị ốm nặng, nước mắt cứ tràn ra, có lúc ông chửi thề một cách chua
chát! Ông sống trong bi kịch triền miên. Vợ con ông vừa buồn vừa sợ, “ gian nhà lặng đi, hiu hắt”. Ông sợ mụ
chủ nhà…có lúc ông nghĩ quẩn “ hay là
quay về làng”… nhưng rồi ông lại kiên quyết: “ Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù!”.
Cuộc đối thoại giữa hai bố con ông là một tình tiết cảm động và thú vị:
…- “À, thầy hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai?”
-
Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!”
Nghe con ngây thơ nói mà nước mắt ông chảy ròng ròng
trên hai má…lòng trung thành của cha con ông, của hàng triệu nông dân Việt Nam đối với
lãnh tụ là vô cùng sâu sắc, kiên định. Vẻ đẹp tâm hồn ấy của họ rất đáng tự
hào, ca ngợi. Kim Lân rất sâu sắc và tinh tế khi miêu tả những biến thái vui,
buồn, lo, sợ, …của người nông dân về cái làng quê của mình. Họ đã yêu làng
trong tình yêu nước, đặt tình yêu nước lên trên tình yêu làng. Đó là một bài
học vô cùng quý giá và sâu sắc của ông Hai đem đến cho chúng ta. Đọc xong đoạn văn, chúng ta bồi hồi xúc động
về tình yêu làng của ông Hai, về nghệ thuật kể chuyện tạo tình huống hấp dẫn,
hồi hộp của nhà văn Kim Lân.
Ví dụ 5: Bài tập: Viết một đoạn văn tổng phân hợp, phát biểu cảm nhận
của em khi đọc đoạn văn sau trong tác phẩm “ Bến quê” của Nguyễn Minh Châu:
“ Bên kia những cây bằng lăng, tiết trời đầu
thu đem đế cho con sông Hồng một màu đỏ nhạt, mặt sông như rộng thêm ra. Vòm
trời cũng như cao hơn. Những tia nắng sớm đang từ từ chuyển từ mặt nước lên
những khoảng bờ bãi bên kia sông, và cả một vùng phù sa lâu đời của bãi bồi ở
bên kia sông Hồng lúc này đang phô ra trước khuôn cửa sổ của gian gác nhà Nhĩ
một thứ màu vàng thau xen với màu xanh non - những sắc màu thân thuộc quá như
da thịt da thịt, hơi thở của đất màu mỡ…”.
Đoạn
văn minh hoạ:
Vẻ
đẹp của thiên nhiên trong một buổi sáng đầu thu được miêu tả qua cái nhìn và
cảm xúc tinh tế của nhân vật Nhĩ.
Cảnh vật được miêu tả theo tầm nhìn của Nhĩ từ gần đến xa, tạo thành một không
gian có nhiều sâu, chiều rộng. Đầu tiên, anh nhìn thấy những bông bằng lăng tím
ngay phía ngoài cửa sổ, rồi đến con sông Hồng với màu nước đỏ nhạt và sau cùng
là bãi bồi bên lia sông. Cảnh vật thiên nhiên hiện ra với vẻ đẹp vô cùng quyến
rũ. Không gian và những cảnh vốn quen thuộc, gần gũi, nhưng hầu như rất mới mẻ
đối với Nhĩ. Tưởng chừng như lần đầu trong đời, anh cảm nhận được vẻ đẹp phong
phú của nó. Từ hoàn cảnh cụ thể của mình, Nhĩ đã quan sát, suy nhẫm để rút ra
quy luật giống như một nghịch lí của đời người. Vào buổi sáng hôm ấy, khi nhận ra
vẻ đẹp bình dị, gần gũi của cảnh vật qua ô của sổ, đồng thời cũng hiểu rằng
mình sắp giã biệt cõi đời, trong tâm thức Nhĩ bừng lên một nhát khao vô vọng là
được đặt chân một lần lên cái bãi bồi bên kia sông. Điều ước muốn ấy chính là
sự thức tỉnh về những giá trị bền vững của những điều bình thường và sâu sắc
của cuộc sống thường bị người ta bỏ qua hoặc lãng quên. Sự thức tỉnh của Nhĩ
xen lẫn niềm ân hận, xót xa: Hoạ chăng
chỉ có anh đã từng trải, đã từng in gót chân khắp mọi phương trời xa lạ mới
nhìn thấy hết sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp của một cái bãi bồi sông Hồng ngay bờ
bên kia.
Luyện
tập:
- Viết đoạn
văn quy nạp (5 -6 câu), trong đó có sử dụng phép nối, nhận xét về nghệ thuật tả người trong đoạn trích “ Chị em Thuý Kiều” (Trích “Truyện Kiều” - Nguyễn Du).
-
Viết khoảng đoạn
văn diễn dịch (5 - 6 câu), trong đó có sử dụng ít nhất một phép liên kết câu,
nhận xét về nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ “ Cảnh ngày xuân” trích trong “ Truyện
Kiều” (Nguyễn Du).
-
Nhận xét về nghệ
thuật tả người của Nguyễn Du qua đoạn
trích “ Mã Giám Sinh mua Kiều” (Truyện Kiều) bằng một đoạn văn tổng phân
hợp (5 – 6 câu), trong đó có sử dụng một câu hỏi tu từ.
-
Nhận xét về nghệ
thuật miêu tả nội tâm của Nguyễn Du qua đoạn trích “ Kiều ở lầu Ngưng Bích” (Truyện
Kiều) bằng một đoạn văn diễn dịch (5 – 6 câu), trong đó có một câu hỏi tu
từ.
-
Suy nghĩ về nhân
vật Lục Vân Tiên trong đoạn trích “ Lục
Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” (Trích “ Lục
Vân Tiên” - Nguyễn Đình Chiểu) bằng một đoạn văn tổng phân hợp (Khoảng 5 –
6 câu), trong đó có sử dụng ít nhất một phép liên kết câu. (Chú ý: Gạch chân từ
ngữ dùng làm phương tiện liên kết câu).
-
Trong bài thơ “ Đồng chí”, Chính hữu viết rất xúc động
về người chiến sĩ trong kháng chiến chống Pháp:
“ Ruộng nương
anh gửi bạn thân cày
Gian nhà
không, mặc kệ gió lung lay
Giếng nước
gốc đa nhớ người ra lính.
Anh với tôi
biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người
vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách
vai
Quần tôi có
vài mảnh vá
Miệng cười
buốt giá
Chân không
giày
Thương nhau
tay nắm lấy bàn tay”
Dựa vào đoạn thơ trên, hãy viết một đoạn
văn (khoảng 10 câu) theo cách lập luận tổng phân hợp trong đó có sử dụng phép
thế và một câu phủ định để làm rõ sự đồng cảm, sẻ chia giữa những người đồng
đội.
-
Khổ thơ sau gợi
lên hình ảnh của người chiến sĩ lái xe:
“ Không có
kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom
rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”
(Trích “ Bài
thơ về tiểu đội xe không kính” - Phạm Tiến Duật)
Em hãy viết một
đoạn văn (10 câu) theo phép lập luận diễn dịch, trong đó có sử dụng phép thế và
một câu có tình thái từ.
-
Trong bài thơ “ Đoàn
thuyền đánh cá” của Huy Cận, có đoạn:
“ Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”.
Em hãy viết một
đoạn văn (8 – 10 câu) cảm nhận về đoạn văn trên theo phép lập luận diễn dịch,
trong đó có sử dụng một câu tình thái từ, với câu chủ đề: “ Chỉ với bốn câu thơ ấy, Huy Cận đã cho ta
thấy một bức tranh kì thú về sự giàu có và đẹp đẽ của biển cả quê hương”.
- Trong bài thơ “ Bếp lửa” của Bằng Việt có đoạn:
“ Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa!”
Hãy viết một đoạn
văn (8 – 10 câu) nêu cảm nghĩ của em về hình ảnh bếp lửa trong đoạn thơ trên
theo phép lập luận tổng phân hợp, trong đó có sử dụng ít nhất hai phép liên kết
câu. (Chú ý: Gạch chân từ ngữ liên kết
câu)
-
Viết một đoạn văn
(khoảng 10 câu) phân tích đoạn thơ sau theo phép lập luận diễn dịch trong đó có
một câu hỏi tu từ:
“ Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ
Em ngủ cho ngoan, đừng rời lưng mẹ
Mẹ đang trỉa bắp trên núi Ka-lưi
Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ
Em ngủ ngoan em đừng làm mẹ mỏi
Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng
- Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a- kay hỡi
Mẹ thương a-kay, mẹ thương làng đói
Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều
Mai sau con lớn phát mười Ka-lưi…”
- Bài thơ “ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của Nguyễn khoa Điềm là
lời hát ru có ba khúc với kết cấu giống nhau, đều kết thúc bằng lời ru trực
tiếp của người mẹ. Hãy chép lại từng lời ru trực tiếp của người mẹ và viết một
đoạn văn (10 câu) theo phép lập luận tổng phân hợp về cấu trúc tình cảm của lời
ru.
-
Viết một đoạn văn quy nạp có sử dụng phương pháp liên
kết câu (8 - 10 câu), với đề tài: Cảm nghĩ của em về hình ảnh người mẹ Tà Ôi
trong bài thơ “ Khúc hát ru những em bé
lớn trên lưng mẹ” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm.
-
Hình ảnh vầng trăng trong bài thơ “ Ánh trăng” của Nguyễn Duy mang nhiều
tầng ý nghĩa. Em hãy làm rõ ý kiến trên bằng một đoạn văn diễn dịch (10 – 12
câu), trong đó có câu hỏi tu từ.
-
Trong bài thơ “ Việt
Bắc” sáng tác năm 1954, có đoạn là lời của nhân dân Việt Bắc nhắn nhủ cán
bộ miền xuôi:
“ Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao, còn nhớ núi đồi nữa chăng?
Phố đông còn nhớ bản làng
Sáng đèn, còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?” (Tố Hữu)
Từ đoạn thơ của Tố Hữu và bài thơ “ Ánh trăng” của Nguyễn Duy, em hãy viết
một đoạn văn phát biểu cảm nghĩ của mình theo phương pháp quy nạp (khoảng 10
câu) với câu chủ đề sau: “ Dù sáng tác ở
hai thời điểm khác nhau, nhưng những vần thơ của Tố Hữu và Nguyễn Duy đã gặp gỡ
ở lời nhắn nhủ: Hãy sống ân tình thuỷ chung”.
-
Viết một đoạn văn (8 – 10 câu) trong đó có sử dụng lời
dẫn gián tiếp, phân tích tâm trạng lo âu, đau khổ của ông Hai trong truyện ngắn
“ Làng” (Kim Lân ) khi nghe được tin
“ cả cái làng Dầu Việt gian theo Tây” .
-
Viết một đoạn văn (8 – 10 câu) trong đó có sử dụng lời
dẫn trực tiếp, phân tích tâm trạng hả hê sung sướng của ông Hai trong truyện
ngắn “ Làng” (Kim Lân) khi được tin
làng Dầu không phải “ Việt gian theo Tây”
như lời đồn.
-
Viết một đoạn văn (8 – 10 ) theo phép lập luận tổng
phân hợp, trong đó có sử dụng lời dẫn trực tiếp, phân tích những phẩm chất tốt
đẹp của anh thanh niên làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu trên đỉnh Yên
Sơn trong truyện ngắn “ Lặng lẽ Sa Pa”
(Nguyễn Thành Long).
-
Viết một đoạn văn diễn dịch có sử dụng phép lặp từ ngữ
(8 – 10 câu) nên cảm nghĩ của em về những nhân vật trong “ Lặng lẽ Sa Pa” (Nguyễn Thành Long) với câu mở đầu: “Đây là những
nhân vật, những tâm hồn trong trẻo, bình dị, hồn hậu và tràn ngập tình thương”.
-
Tác phẩm “ Lặng
lẽ Sa Pa” (Nguyễn Thành Long) và tác phẩm “ Những ngôi sao xa xôi” (Lê Minh Khuê) đều viết về vẻ đẹp trong lối
sống, tâm hồn của con người Việt Nam trong lao động và trong chiến đấu. Em hãy
phát biểu cảm nghĩ của mình về vẻ đẹp đó bằng một đoạn văn diễn dịch (khoảng 10
câu), có dùng phép lặp từ ngữ, với câu chủ đề: “ Vẻ đẹp của các nhân vật đều mang màu sắc lí tưởng, họ là hình ảnh của
con người Việt Nam mang vẻ đẹp của thời kì lịch sử gian khổ hào hùng và lãng mạn của dân tộc”.
-
Viết đoạn văn tổng phân hợp (10 câu) phân tích ý nghĩa
của hai tình huống trong truyện “ Chiếc
lược ngà” (Nguyễn Quang Sáng).
-
Viết một đoạn văn tổng phân hợp, có sử dụng phương
pháp liên kết câu (khoảng 6 – 8 câu) với đề tài: Cảm nhận của em về nhân vật bé
Thu trong tác phẩm “ Chiếc lược ngà”
của Nguyễn Quang Sáng.
-
Trong bài thơ “
Con cò ” (Chế Lan Viên) có đoạn:
“ Một con cò thôi
Con cò mẹ hát
Cũng là cuộc đời
Vỗ cánh qua nôi”
Em
hãy viết một đoạn văn tổng phân hợp (8 - 10 câu), trong đó có sử dụng phép lặp
từ ngữ, cảm nhận về lời ru trong đoạn thơ trên.
-
Trong bài thơ “ Nói
với con” của Y Phương có đoạn:
“ Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng”.
Hãy viết một đoạn văn (7 - 8 câu)
cảm nhận về đoạn thơ trên, theo phép lập luận diễn dịch, trong đó sử dụng ít
nhất hai phép liên kết câu.
-
Bài thơ “ Viếng
lăng Bác” của Viễn Phương có đoạn:
“ Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn là cây tre trung hiếu chốn
này”
Hãy viết một đoạn văn (8 - 10 câu) cảm nhận về đoạn thơ
trên, theo phép lập luận diễn dịch, trong đó có sử dụng ít nhất hai phép liên
kết câu.
- Viết đoạn văn cảm nhận của em trước lòng kính
yêu tha thiết của nhân dân miền Nam đối với chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài thơ
“ Viếng lăng Bác ”, theo phép lập
luận diễn dịch (khoảng 10 câu) trong đó có dùng phương pháp liên kết câu. (Chú
ý: Gạch chân từ ngữ được sử dụng làm phương tiện liên kết câu).
-
Viết một đoạn văn cảm nhận về vẻ đẹp trong lối sống, tâm
hồn của nhân vật Phương Định trong truyện “ Những
ngôi sao xa xôi ” (Lê Minh Khuê), theo phép lập luận quy nạp trong đó có sử
dụng phép thế (khoảng 10 câu).
-
Viết một đoạn văn theo phương pháp diễn dịch (khoảng 6 –
8 câu), trong đoạn văn có sử dụng một câu hỏi tu từ, phân tích ý nghĩa của đoạn
thơ sau:
“ Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy quanh lưng
Mùa xuân người ra trận
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao…
Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước”.
(Trích “
Mùa xuân nho nhỏ” – Thanh Hải)
-
Trong bài thơ “ Mùa
xuân nho nhỏ”, Thanh Hải viết:
“ Ta làm con chim hót
Ta làm một nhành hoa”.
Kết thúc bài “ Viếng lăng Bác”, Viễn Phương viết:
“ Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác”.
Hai bài thơ của hai tác giả viết
về đề tài khác nhau nhưng có chung chủ đề: ước nguyện chân thành, khiêm nhường,
bình dị muốn được góp phần dù nhỏ bé vào cuộc đời chung. Từ hai đoạn thơ trên,
viết một đoạn văn phát biểu cảm nghĩ của em bằng một đoạn văn diễn dịch khoảng
8 – 10 câu, trong đó có dùng phép liên kết câu. (Chú ý: Gạch chân những từ ngữ
dùng làm phương tiện liên kết câu).
-
Bài thơ “ Đồng chí
” (Chính Hữu) viết về hình ảnh người lính trong kháng chiến chống Pháp, bài thơ
“ Bài thơ về tiểu đội xe không kính ”
(Phạm Tiến Duật) viết về hình ảnh người lính trong kháng chiến chống Mĩ.
Em hãy viết một đoạn văn diễn dịch, có sử dụng phương pháp liên kết câu,
về hình ảnh người lính qua hai bài thơ trên, với câu chủ đề: “ Hình tượng anh bộ đội trong thơ ca thời kì
chống Pháp và chống Mĩ vừa mang những phẩm chất chung hết sức đẹp đẽ của người
lính Cụ Hồ vừa có những nét cá tính riêng khá độc đáo”.