Ví dụ 1:- Bài tập:
Trong truyện “ Người con gái Nam
Xương” của Nguyễn Dữ có rất nhiều chi tiết, nhưng theo em chi tiết nào đặc
sắc nhất trong tác phẩm? Hãy viết một đoạn văn ngắn phân tích ý nghĩa của chi tiết
đó.
- Đoạn văn minh hoạ:
Trong tác phẩm văn học có rất nhiều chi tiết nhưng có những
chi tiết rất đặc sắc. Chi tiết đặc sắc là chi tiết quan trọng mà nhờ đó cốt
truyện mới phát triển được, đồng thời nó góp phần thể hiện nội dung chủ đề của
tác phẩm. Chi tiết đặc sắc nhất trong truyện “ Chuyện người con gái Nam Xương” chính là chi tiết “ cái
bóng”. “ Cái bóng” thắt nút
mâu thuẫn, đẩy kịch tính của câu chuyện lên đến cao trào và đỉnh điểm mâu
thuẫn. Song cuối cùng chính “cái bóng”
cởi nút mâu thuẫn, giải oan cho Vũ Nương. Không có cái bóng sẽ không có sự hiểu
lầm, không có oan tình, không có cái chết oan khuất của Vũ Nương. Mặt khác, “ cái bóng” ẩn chứa những tình cảm đẹp của
Vũ Nương với chồng con. Nàng nhớ chồng thương con nên đã nghĩ ra trò đùa như
vậy. Nhưng “ cái bóng” đã gây nên nỗi
oan tình khiến nàng phải trẫm mình xuống
dòng sông Hoàng Giang mà chết oan khuất. “ Cái
bóng” trong lời nói của bé Đản là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cái chết
của Vũ Nương. Qua cái chết của Vũ Nương, người đọc hiểu hơn số phận bi thảm của
người phụ nữ trong xã hội xưa, hiểu được chế độ nam quyền độc đoán, bất công,
vô nhân đạo. Như vậy “ cái bóng” là
chi tiết quan trọng góp phần thể hiện nội dung chủ đề của tác phẩm.
Ví dụ 2:- Bài tập: Em
hãy chọn một chi tiết đặc sắc thể hiện tình yêu tha thiết làng quê mình của ông
Hai trong tác phẩm “ Làng” của Kim
Lân, viết một đoạn văn ngắn phân tích chi tiết đó (sử dụng câu hỏi tu từ cuối
đoạn).
- Đoạn văn minh hoạ:
“ Tình yêu làng trào dâng như sóng và trở thành một niềm
cảm hứng mãnh liệt trong ông Hai. Bằng cách để nhân vật tự kể về mình, nhà văn
đã giúp ta hiểu phần nào tâm trạng của
ông Hai. Niềm vui sướng của ông khi kể chuyện làng lan sang cả trang sách, len
lỏi vào lòng người đọc. Không những vật, ông còn tự hào về làng mình có những
đường hầm, hào liên tiếp, có những ụ giao thông, những buổi tập quân sự của các
cụ phụ lão cứu quốc…Điều đó thể hiện một tình cảm sâu kín thấm vào da thịt ông
rất giản dị mà cao quý. Tình cảm đó càng được nhân lên gấp bội khi ông nghe tin
làng chợ Dầu đi Việt gian: “ Cổ ông nghẹn đắng lại, da mặt ông tê rân”…Chỉ
bằng một chi tiết nhỏ nhưng rất đặc sắc, Kim Lân đã diễn tả thành công sự đau
khổ đang giày vò, giằng xé tâm can ông Hai. Nhà văn rất tài tình khi xây dựng,
dâng tình tiết truyện lên đến kịch tính, đưa câu chuyện lên đến đỉnh cao mâu
thuẫn để bộc lộ đáy sâu tâm hồn ông Hai. Biết tin sét đánh này, ông nghẹn ngào,
choáng váng, nói không ra lời như một cái gì nuốt không nổi. Suy cho cùng, nỗi
đau đớn ấy cũng xuất phát từ tình yêu làng của ông mà ra. Bởi vì yêu làng quá,
tin làng quá nên ông mới xấu hổ, tủi hổ khi nghe cái tin ấy. Tình yêu làng của ông thật cao đẹp, to lớn
biết nhường nào?”
Câu kết thúc đoạn là câu hỏi tu từ.
Ví dụ 3:- Bài tập: Em hãy chọn một chi tiết đặc sắc thể hiện sự chiêm nghiệm
của Nhĩ trong tác phẩm “ Bến quê” của
Nguyễn Minh Châu, viết một đoạn văn ngắn, có câu hỏi tu từ, phân tích chi tiết
đó.
- Đoạn văn minh hoạ:
“ Bến quê” là một
truyện ngắn thấm đẫm ý vị triết lí về con người và cuộc đời. Bài học về lẽ sống
được đặt ra trong tác phẩm thật cảm động. Nhĩ là nhân vật trung tâm của tác phẩm.
Anh là người thành đạt, bước chân của anh đã in dấu nhiều nơi trên trái đất,
giờ đây lại bị cột chặt vào giường bệnh. Chính vào thời điểm này, thời điểm đối
mặt với cái chết, đối mặt với chính mình Nhĩ mới chợt nhận ra, chợt thấu hiểu
giá trị đích thực của cuộc sống. Vậy điều
chiêm nghiệm lớn lao nhất của Nhĩ là gì? Nằm bên cửa sổ, trông ra bến quê
Nhĩ lúc này mới phát hiện ra vẻ đẹp thầm kín, bình dị của bãi bồi bên kia sông
Hồng “ một chân trời gần gũi mà lại xa
lắc”. Trong anh chợt bừng lên một niềm khao khát vươn tới: sang bên kia
sông. Thoạt nghe tưởng chừng lạ lùng nhưng thực ra đó là điều mong muốn chính
đáng. Nhĩ bệnh trọng nên anh trao niềm mong muốn đó cho con trai anh - thằng
Tuấn, hi vọng con trai thay thay mình khám phá được vẻ đẹp của mảnh đất thân
thuộc. Đến đây Nhĩ gặp phải nghịch lí: đứa con không hiểu được ước muốn của
cha. Tuấn còn trẻ - cái độ tuổi chưa đủ chín chắn, do đó Tuấn làm một cách miễn
cưỡng và hờ hững để rồi lại bị cuốn hút vào trò chơi phá cờ thế trên đường phố.
Nhưng Nhĩ không trách con mà anh chỉ buồn bởi Tuấn dẫm theo vết xe đổ của bản
thân mình. Nguyễn Minh Châu đã sử dụng nhiều hình ảnh mang lớp nghĩa biểu tượng
để thể hiện điều chiêm nghiệm của tác giả qua suy nghĩ của nhân vật Nhĩ. Trò
chơi phá cờ thế trên hè phố chính là tượng trưng cho những cám dỗ, những điều
hấp dẫn khiến con người đi sai hướng. Mà cơ hội thì khó xuất hịên hai lần như
chuyến đò ngang chở khách qua sông duy nhất một lần trong ngày. Đó cũng là quy
luật phổ biến của đời người: “ Con người trên đường đời thật khó tránh
được những điều vòng vèo hoặc chùng chình”. Đây chính là điều mà đến
lúc sắp giã biệt cuộc đời Nhĩ mới kịp nhận ra nhưng cũng đã muộn, đây cũng
chính là điều chiêm nghiệm lớn lao nhất của Nhĩ. Con đường trong tâm thức Nhĩ
là vòng vèo, chùng chình vì nhiều người bị lạc đường, lạc hướng, thiếu trí tuệ.
Hình ảnh con đò cập bến phải chăng là
biểu tượng cho con đò đưa Nhĩ đến bến bờ hư không của một kiếp người?
Chính giây phút đó, Nhĩ sắp từ giã cõi đời mà anh vẫn chưa thực hiện được mong
muốn cuối cùng. Cái mảnh đất đầy phù sa bên kia sông vẫn cứ xa lắc. Hình ảnh
kết thúc truyện cứ ám ảnh mãi trong lòng người đọc với hình ảnh Nhĩ cố giơ tay
ra hiệu cho người con trai khi chiếc đò cập bến. Nhưng mọi cố gắng của anh
dường như là vô vọng…Hình ảnh này cứ xoáy váo tâm trí người đọc một cảm xúc khó
tả đến nao lòng.
Ví dụ 4:Bài tập:
Trong đoạn thơ sau:
“ Cá nhụ cá
chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”
Em thích hình ảnh nào nhất? Hãy viết
một đoạn văn quy nạp, phân tích hình ảnh đó.
-
Đoạn văn minh hoạ:
“Đoàn
thuyến đánh cá” là bài thơ hay của nhà thơ Huy Cận, miêu tả nhiều cảnh của
một chuyến ra khơi đánh cá của một đoàn thuyền từ lúc “ mặt trời xuống biển” chiều hôm trước, đến tận lúc “ mặt trời đội biển nhô màu mới” sáng hôm
sau mới trở về. Đoàn thuyến ra khơi đi tìm được luồng cá trong lòng biển. Lưới
đã thả và luồng cá hiện ra. Những con cá hiện ra thật đẹp “ cá nhụ cá chim cùng cá đé”. Có rất nhiều
loại cá và ta có thể nhận thấy đó là những loài cá quý. Trong tầm nhìn, từng
đàn cá chen nhau đông đúc. Dưới ánh trăng, thân hình cá lấp lánh lung linh, và
giữa các đàn cá đó, nổi bật lên hình ảnh:
“ Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé
Đêm thở sao lùa nước Hạ Long”
Đoạn thơ cho ta
thấy đầy đủ sắc màu rực rỡ của con cá song. Đặc biệt hình ảnh đuôi cá được miêu
tả thật độc đáo, sống động: “ Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé”.
Giữa muôn ngàn cá, con nào cũng đẹp, nhưng cá song nổi bật lên không chỉ ở màu
sắc rực rỡ như ngọn đuốc của cá làm cho trăng đẹp hơn, sáng hơn mà là ở cái
đuôi “ quẫy” khiến trăng “ vàng choé”. Chính cử động ấy đã làm tâm
hồn nhà thơ rung động và bật lên tiếng “
em” trìu mến. Câu thơ đã góp phần làm cho bức tranh cá đầy màu sắc, ánh
sáng, có hồn, và có giá trị thẩm mĩ đặc sắc: gợi tả và ca ngợi biển quê hương
giàu đẹp.
Ví dụ 5:- Bài tập: Trong phần thứ nhất của bài thơ “ Mùa xuân nho nhỏ” Thanh Hải viết:
“ Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
Đoạn thơ đẹp như
một bức tranh. Em thích nhất hình ảnh nào trong bức tranh đó? Hãy viết một đoạn
văn, có sử dụng câu ghép, phân tích hình ảnh ấy.
- Đoạn văn minh hoạ 1:
“ Mùa
xuân nho nhỏ” của Thanh Hải là một
bài thơ ca ngợi cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp của đất nước, một mùa xuân vui
tươi, tràn đầy sức sống. Sáu câu thơ đầu đẹp như một bức tranh, bức tranh thơ
được vẽ bằng nét bút tài hoa của người nghệ sĩ, bằng một niềm yêu mến thiết tha
cảnh sắc thiên nhiên đất nước. Khung cảnh mùa xuân đã khơi nguồn cho bao thi
sĩ. Mùa xuân trong thơ Trần Nhân Tông với hình ảnh:
“Song song đôi bướm trắng
Phất phới sấn hoa bay”.
(Xuân hiểu)
Hay trong thơ Nguyễn Trãi đó lại là
hình ảnh:
“
Trong tiếng cuốc kêu xuân đã muộn
Đầy sân
mưa bụi nở hoa xoan”
(Cuối xuân tức sự)
Trong thơ Nguyễn Du ta mới bắt gặp
hình ảnh:
“
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
(Truyện Kiều)
Ta
đã được chiêm ngưỡng nhiều bức tranh về mùa xuân song bức tranh mùa xuân trong
thơ Thanh Hải lại mang một nét đẹp hoàn toàn mới mẻ, tạo cho người xem một
nguồn cảm hứng hoàn toàn mới lạ nhưng cũng dạt dào tha thiết. Trong bức
tranh mùa xuân này, hình ảnh thơ ấn tượng nhất là:
“ Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc”
Ở đây tác giả sử dụng biện pháp đảo
ngữ với dụng ý là làm nổi bật lên hình ảnh bông hoa tím biếc giữa dòng sông
xanh. Lẽ ra phải viết là: “ Một bông hoa
tím biếc - Mọc giữ dòng sông xanh” thì tác giả lại viết: “ Mọc giữa dòng sông xanh - Một bông hoa tím
biếc” để diễn tả sự trầm trồ ngạc nhiên trước tín hiệu đầu xuân. Dòng sông
xanh được nói đến là con sông Hương – bài thơ trữ tình của cố đô Huế. Đúng là
một bức tranh đẹp với những nét vẽ tài hoa của người nghệ sĩ, một bức tranh có
đủ đường nét màu sắc. Ở đây các gam màu được phối hợp một cách hài hoà: giữa
cái nền xanh của dòng sông nổi lên sắc tím biếc của bông hoa. Phải nói rằng
Thanh Hải có một cái nhìn rất tinh tế của một hoạ sĩ thực thụ trong sự hoà phối
các gam màu để tạo nên cho bức tranh xuân một vẻ đẹp dịu dàng nhưng thật đằm
thắm, tạo cảm giác êm ái trong lòng người đọc mỗi khi xuân về.
- Đoạn văn minh hoạ 2:
Bài thơ “ Mùa xuân nho nhỏ” được Thanh Hải viết vào năm 1980, trong khung
cảnh hoà bình, xây dựng đất nước. Một hồn thơ trong trẻo. Một điệu thơ ngân
vang. Sáu câu thơ đầu như một tiếng hát reo vui đón chào một mùa xuân đẹp đã
về. Tín hiệu đầu xuân là bông hoa tím biếc mọc trên dòng sông xanh của quê
hương. Màu xanh của nước hoà với màu “ tím
biếc” của hoa đã tạo nên bức tranh xuân chấm phá mà đằm thắm. Bức tranh thơ
ấy sống động hơn, có giá trị thẩm mĩ đặc sắc bởi một hình ảnh thơ gợi tả gợi
cảm: tiếng chim. Đứng trước dòng sông xanh, bông hoa tím, ngẩng nhìn bầu trời,
nhà thơ vui sướng lắng tai nghe chim chiền chiện hót. Chim chiền chiện còn gọi
là chim sơn ca, bạn của nhà nông. Từ “ơi”
cảm thán biểu lộ niềm vui ngây ngất khi nghe chim hót:
“Ơi
con chim chiền chiện
Hót
chi mà vang trời”
Hai tiếng “ hót chi” là giọng điệu thân thương của người dân Huế được tác giả
đưa vào diễn tả cảm xúc thiết tha giữa người với tạo vật. Chim chiền chiện hót
gọi xuân về, tiếng chim ngân vang, rung động đất trời đem đến bao niềm vui.
Ngắm dòng sông, nhìn bông hoa đẹp, nghe chim hót, nhà thơ bồi hồi sung sướng:
“ Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
“Đưa
tay…hứng” là một cử chỉ bình dị trân trọng, thể hiện sự xúc động sâu xa. “ Giọt long lanh” là sự liên tưởng đầy
chất thơ. Là giọt sương mai, hay giọt âm thanh tiếng chim chiền chiện? Sự
chuyển đổi cảm giác (thính giác - thị giác) đã tạo nên hình khối thẩm mĩ của âm
thanh. Chỉ với ba nét vẽ: dòng sông xanh, bông hoa tím biếc và đặc biệt là
tiêng chim chiền chiện hót …,Thanh Hải đã vẽ nên một bức tranh xuân đẹp tươi và
dáng yêu vô cùng. Đó là vẻ đẹp đầy sức sống mặn mà của đất nước vào xuân.
Ví dụ 6: Bài tập: Phân tích cách dùng từ “ nghĩa là” của Phạm Tiến Duật trong khổ thơ sau bằng đoạn văn quy
nạp :
“ Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm”
-
Đoạn văn minh hoạ:
“ Cuộc trú quân dã chiến của tiểu đội xe
không lính ngắn ngủi mà thắm tình đồng chí, đồng đội. Đời lính rất giản dị,
bình dị mà lại rất sang trọng. Giữa chiến trường ác liệt đầy bom đạn họ vẫn
đàng hoàng “ Bếp Hoàng cầm ta dựng giữa
trời”. Giữa trời là giữa thanh thiên bạch nhật. Bữa cơm dã chiến chỉ có bát
canh rau rừng, có lương khô…thế mà rất đậm đà: “ Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”. Một chữ “ chung” rất hay gợi tả gia tài người
lính, tấm lòng, tình cảm người lính. Tiểu đội xe không kính trở thành một tiểu
gia đình chan chứa tình thương. “ Thơ là
nữ hoàng nghệ thuật” thì ngôn từ
là chiếc áo của nữ hoàng. Hai chữ “ nghiã
là” chỉ dùng để đưa đẩy nhưng dưới ngòi bút của những nhà thơ tài hoa thì
nó trở nên óng ánh, duyên dáng, đậm đà. Với Xuân Diệu, mùa
xuân, tuổi trẻ, thật đáng yêu, một đi không trở lại:
“ Xuân đang tới nghĩ là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân đã già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cững mất…”
(“ Vội
vàng” – 1938)
Với Tố Hữu, người thanh niên cộng sản quyết chiến đấu
và hi sinh vì một lí tưởng cách mạng cao đẹp thì hận, nhục, tranh đấu là lẽ
sống thiêng liêng:
“ Tôi chưa chất nghĩa là chưa hết hận
Nghĩa là chưa hết nhục của muôn đời
Nghĩa là còn tranh đấu mãi không thôi
Còn
trừ diệt cả một loài thú độc!”
(“Tâm tư
trong tù” 1939)
Và Phạm Tiến Dụât, 1969, thì tình đồng đội cũng là
tình anh em ruột thịt, vô cùng thân thiết:
“ Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”
Thi sĩ có thực tài mới có thể thổi hồn vào ngôn từ.
Chỉ qua hai chữ “ nghĩa là”, ta đủ
thấy nhà thơ trẻ rất xứng đáng với các thi sĩ đàn anh. Sau một bữa cơm thân
mật, một vài câu chuyện thân tình lúc nằm võng, những người lính trẻ lại lên
đường, tiền phương đang vẫy gọi:
“ Lại đi, lại đi trời xanh thêm”
Điệp ngữ “ lại
đi” diễn tả nhịp bước hành quân,
những cung đường, những chặng đường tiến quân lên phía trước của tiểu đội xe
không kính. Hình ảnh “ trời xanh thêm” là một nét vẽ rất tài hoa mang ý
nghĩa tượng trưng sâu sắc: lạc quan, yêu đời, chứa chan hi vọng. Là hi vọng, là
chiến công đang chờ. Đây là đoạn thơ
thể hiện sinh động sinh hoạt vật chất và
tinh thần người lính thời đánh Mĩ, rất hay, rất độc đáo mà ta ít gặp thời ấy”.
Mô
hình cấu trúc đoạn văn: Đoạn văn quy nạp.
Các câu trên
phân tích cảm nhận từng từ ngữ, hình ảnh thơ.
Câu chủ đề:
câu cuối cùng kết lại đánh giá chung về khổ thơ.
Luyện tập:
- Phân tích chi tiết cái chết của ông Sáu trong truyện
ngắn “ Chiếc lược ngà” của Nguyễn
Quang Sáng để làm sáng tỏ nhận xét của nhân vật ông Ba trong tác phẩm : “ Hình như chỉ có tình cha con là không chết
được”.
- Viết một đoạn văn phân tích cảnh chia tay cảm động
của cha con ông Sáu trong truyện “ Chiếc
lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng để làm rõ cảm giác của nhân vật ông Ba
trong truyện “ Nhìn cảnh ấy, bà con xung
quanh có người không cầm được nước mắt, còn tôi bỗng thấy khó thở như có bàn
tay ai đó nắm lấy trái tim tôi”.
- Viết một đoạn văn ngắn phân tích chi tiết mang tính
biểu tượng ở cuối tác phẩm “Bến quê”
của nguyễn Minh Châu: “ Nhĩ đang thu hết
mọi chút sức lực cuối cùng còn sót lại để đu mình nhô người ra ngoài, giơ một
cánh tay gầy guộc ra phía ngoài cửa sổ khoát khoát y như đang khẩn thiết ra
hiệu cho một người nào đó”.
- Viết một đoạn văn phân tích hình ảnh hàng tre trong
khổ thơ sau:
“ Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh Việt nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”
(“ Viếng lăng Bác” - Viễn Phương)
- Viết một đoạn văn, có sử dụng câu hỏi tu từ, phân
tích hình ảnh vầng trăng trong khổ thơ cuối bài “Ánh trăng” của Nguyễn Duy:
“ Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh
trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”.
- Viết một đoạn văn, có sử dụng câu mở rộng phành
phần, phân tích hình ảnh đám mây trong hai câu thơ sau:
“ Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”
(“ Sang thu” - Hữu Thỉnh)