Câu
1:
a. Hai câu thơ
trong đoạn “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga”, trích trong tác phẩm
truyện thơ “Lục Vân Tiên” của nhà thơ Nguyễn Điình Chiểu.
b. Giới thiệu được những nét chính về cuộc
đời của Nguyễn Đình Chiểu:
- Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888), tục gọi là
Đồ Chiểu, sinh tại quê mẹ ở làng Tân Thới, tỉnh Gia Định (nay thuộc thành phố
Hồ Chí Minh); quê cha ở xã Bồ Điền, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Đầ Tú tài năm 21 tuổi, nhưng 6 năm sau ông
bị mù.
- Sống bằng nghề dạy học và bốc thuốc chữa
bệnh cho nhân dân.
- Thực dân Pháp xâm lược Nam Kì, ông tích
cực tham gia kháng chiến, sáng tác thơ văn khích lệ tinh thần chiến đấu của
nhân dân. Là nhà thơ lớn của dân tộc, để lại cho đời nhiều tác phẩm văn chương
có giá trị nhằm truyền bá đạo lí và cổ vũ lòng yêu nước, ý chí cứu nước.
c. Biết vận dụng kiến thức từ Hán – Việt để
giải thích ý nghĩa hai câu thơ. Từ đó rút ra ý tứ của tác giả muốn gửi gắm qua
hai câu thơ.
- Kiến: thấy (chứng kiến).
- Ngãi: (nghĩa): lẽ phải làm khuôn
phép cư xử.
- Bất: chẳng, không.
- Vi:
làm (hành vi).
- Phi:
trái, không phải.
* Từ đó ta
có thể hiểu nghĩa của hai câu thơ là thấy việc hợp với lẽ phải mà không làm thì
không phải là người anh hùng.
* Qua hai
câu thơ, tác giả muốn thể hiện một qua niệm đạo lí: người anh hùng là người sẵn
sàng làm việc nghĩa một cách vô tư, không tính toán. Làm việc nghĩa là bổn
phận, là lẽ tự nhiên. Đó là cách cư xử mang tinh thần nghĩa hiệp của các bậc
anh hùng hảo hán.
Câu 2:
I/ Tìm hiểu
đề
- Đề đã xác
định hướng phân tích bài thơ: bài thơ đã diễn tả sâu sắc tình đồng chí cao quý
của các anh bộ đội thời kì kháng chiến chống Pháp.
- Để tìm
được ý cần đọc kĩ bài thơ và trả lời các câu hỏi:
+ Tình đồng
chí ấy biểu hiện cụ thể ở những điểm nào?
+ Những từ
ngữ, hình ảnh, chi tiết nào thể hiện từng luận điểm đó?
II/ Dàn bài
chi tiết
A- Mở bài:
- Bài thơ ra đời
năm 1948, khi Chính Hữu là chính trị viên đại đội thuộc Trung đoàn Thủ đô, là
kết quả của những trải nghiệm thực, những cảm xúc sâu xa của tác giả với đồng
đội trong chiến dịch Việt Bắc.
- Nêu nhận xét
chung về bài thơ (như đề bài đã nêu)
B- Thân bài:
1. Tình
đồng chí xuất phát từ nguồn gốc cao quý
- Xuất thân
nghèo khổ: Nước mặn đồng chua, đất cày lên sỏi đá
- Chung lí tưởng
chiến đấu: Súng bên súng, đầu sát bên đầu
- Từ xa cách họ
nhập lại trong một đội ngũ gắn bó keo sơn, từ ngôn ngữ đến hình ảnh đều biểu
hiện, từ sự cách xa họ ngày càng tiến lại gần nhau rồi như nhập làm một: nước
mặn, đất sỏi đá (người vùng biển, kẻ vùng trung du), đôi người xa lạ,
chẳng hẹn quen nhau, rồi đến đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.
- Kết thúc đoạn
là dòng thơ chỉ có một từ : Đồng chí (một nốt nhấn, một sự kết tinh cảm
xúc).
2. Tình đồng chí trong cuộc sống gian lao
- Họ cảm thông chia sẻ tâm tư, nầi nhớ quê:
nhớ ruộng nương, lo cảnh nhà gieo neo (ruộng nương… gửi bạn, gian nhà không
… lung lay), từ “mặc kệ” chỉ là cách nói có vẻ phớt đời, về tình cảm
phải hiểu ngược lại), giọng điệu, hình ảnh của ca dao (bến nước, gốc đa)
làm cho lời thơ càng thêm thắm thiết.
- Cùng chia sẻ những gian lao thiếu thốn,
những cơn sốt rét rừng nguy hiểm: những chi tiết đời thường trở thành thơ, mà
thơ hay (tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh,…) ; từng cặp chi tiết thơ
sóng đôi như hai đồng chí bên nhau : áo anh rách vai / quần tôi có vài mảnh
vá ; miệng cười buốt giá / chân không giày ; tay nắm / bàn tay.
- Kết đoạn cũng quy tụ cảm xúc vào một câu :
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay (tình đồng chí truyền hôi ấm cho đồng
đội, vượt qua bao gian lao, bệnh tật).
3. Tình đồng chí trong chiến hào chờ
giặc
- Cảnh chờ giặc căng thẳng, rét buốt : đêm,
rừng hoang, sương muối.
- Họ càng sát bên nhau vì chung chiến hào,
chung nhiệm vụ chiến đấu : chờ giặc.
- Cuối đoạn mà cũng là cuối bài cảm xúc lại
được kết tinh trong câu thơ rất đẹp : Đầu súng trăng treo (như bức tượng
đài người lính, hình ảnh đẹp nhất, cao quý nhất của tình đồng chí, cách biểu
hiện thật độc đáo, vừa lãng mạn vừa hiện thực, vừa là tinh thần chiến sĩ vừa là
tâm hồn thi sĩ,…)
C- Kết bài :
- Đề tài dễ khô khan nhưng được Chính Hữu
biểu hiện một cách cảm động, sâu lắng nhờ biết khai thác chất thơ từ những cái
bình dị của đời thường. Đây là một sự cách tân so với thơ thời đó viết về người
lính.
- Viết về bộ đội mà không tiếng súng nhưng
tình cảm của người lính, sự hi sinh của người lính vẫn cao cả, hào hùng