Câu 1 :
Chép đúng 4 câu thơ đầu đoạn trích.
Câu 2 :
a. Yêu cầu
về nội dung:
- Cần làm rõ 4 câu thơ dầu của đoạn trích"Cảnh
ngày xuân" là một bức hoạ tuyệt đẹp về mùa xuân.
+ Hai câu thơ đầu gợi không gian và thời
gian – Mùa xuân thấm thoắt trôi mau. Không gian tràn ngập vẻ đẹp của mùa
xuân, rộng lớn, bát ngát.
+ Hai câu thơ sau tập trung miêu tả làm nổi
bật lên vẻ đẹp mới mẻ, tinh khôi giàu sức sống, nhẹ nhàng thanh khiết và có hồn
qua: đường nét, hình ảnh, màu sắc, khí trời cảnh vật…
- Tâm hồn con người vui tươi, phấn chấn qua
cái nhìn thiên nhiên trong trẻo, tươi tắn hồn nhiên.
- Ngòi bút của Nguyễn Du tài hoa, giàu chất
tạo hình, ngôn ngữ biểu cảm gợi tả.
b. Yêu cầu vê hình thức :
- Trình bày thành đoạn văn. Biết sử dụng các
thao tác biểu cảm để làm rõ nội dung.
- Câu văn mạch lạc, có cảm xúc.
- Không mắc các lầi câu, chính tả, ngữ pháp
thông thường (gọi chung là lầi diễn đạt)
-có sử dụng câu
chứa thành phần khởi ngữ.
Câu 3 :
I/ Tìm hiểu
đề :
- Đề yêu cầu phân tích một nhận xét :
Những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống thực dân
Pháp. Cái tình cảm có tính chất chung được nhà văn biểu hiện rất sinh động cụ
thể trong nhân vật ông Hai. Vì thế cần phân tích tình yêu làng thắm thiết thống
nhất với lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến ở nhân vật ông Hai.
- Nhưng truyện thuộc loại có cốt truyện tâm
lí, nhân vật ít hành động, chủ yếu biểu hiện nhân vật qua các tình huống bên
trong nội tâm nhân vật. Do đó phải phân tích kĩ diễn diến tâm trạng ông Hai
trong tình huống nghe tin làng theo giặc. Từ đó làm nổi rõ đặc điểm tính cách
yêu làng, yêu nước của nhân vật.
- Do yêu cầu của đề, cách viết nên có sự
phân tích chung, rồi đi sâu vào nhân vật ông Hai, sau đó nhấn mạnh và khẳng
điịnh sự gắn bó giữa tình yêu làng có tính truyền thống với những chuyển biến
mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam trong sự giác ngộ cách mạng.
- Dựa vào đoạn trích là chủ yếu, nhưng để
phân tích được trọn vẹn, có thể trình bày lướt qua về nhân vật ở những đoạn
khác.
II/ Dàn bài chi tiết
A- Mở bài:
- Kim Lân thuộc
lớp các nhà văn đã thành danh từ trước Cách mạng Tháng 8 – 1945 với những
truyện ngắn nổi tiếng về vẻ đẹp văn hoá xứ Kinh Bắc. Ông gắn bó với thôn quê,
từ lâu đã am hiểu người nông dân. Đi kháng chiến, ông tha thiết muốn thể hiện
tinh thần kháng chiến của người nông dân
- Truyện ngắn Làng
được viết và in năm 1948, trên số đầu tiên của tạp chí Văn nghệ ở chiến
khu Việt Bắc. Truyện nhanh chóng được khẳng định vì nó thể hiện thành công một
tình cảm lớn lao của dân tộc, tình yêu nước, thông qua một con người cụ thể,
người nông dân với bản chất truyền thống cùng những chuyển biến mới trong tình
cảm của họ vào thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
B- Thân bài
1. Truyện ngắn Làng
biểu hiện một tình cảm cao đẹp của toàn dân tộc, tình cảm quê hương đất nước.
Với người nông dân thời đại cách mạng và kháng chiến thì tình yêu làng xóm quê
hương đã hoà nhập trong tình yêu nước, tinh thần kháng chiến. Tình cảm đó vừa
có tính truyền thống vừa có chuyển biến mới.
2. Thành công
của Kim Lân là đã diễn tả tình cảm, tâm lí chung ấy trong sự thể hiện sinh động
và độc đáo ở một con người, nhân vật ông Hai. ở ông Hai tình cảm chung đó mang
rõ màu sắc riêng, in rõ cá tính chỉ riêng ông mới có.
a. Tình yêu
làng, một bản chất có tính truyền thông trong ông Hai.
- Ông hay khoe
làng, đó là niềm tự hào sâu sắc về làng quê.
- Cái làng đó
với người nồn dân có một ý nghĩa cực kì quan trọng trong đời sống vật chất và
tinh thần.
b. Sau cách
mạng, đi theo kháng chiến, ông đã có những chuyển biến mới trong tình cảm.
- Được cách mạng
giải phóng, ông tự hào về phong trào cách mạng của quê hương, vê việc xây dựng
làng kháng chiến của quê ông. Phải xa làng, ông nhớ quá cái khong khí “đào
đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá…”; rồi ông lo “cái chòi gác,… những đường
hầm bí mật,…” đã xong chưa?
- Tâm lí ham
thích theo dõi tin tức kháng chiến, thích bìh luận, náo nức trước tin thắng lợi
ở mọi nơi “Cứ thế, chầ này giết một tí, chầ kia giết một tí, cả súng cũng
vậy, hôm nay dăm khẩu, ngày mai dăm khẩu, tích tiểu thành đại, làm gì mà thằng
Tây không bước sớm”.
c. Tình yêu làng
gắn bó sâu sắc với tình yêu nước của ông Hai bộc lộ sâu sắc trong tâm lí ông
khi nghe tin làng theo giặc.
- Khi mới nghe
tin xấu đó, ông sững sờ, chưa tin. Nhưng khi người ta kể rành rọt, không tin
không được, ông xấu hổ lảng ra về. Nghe họ chì chiết ông đau đớn cúi gầm mặt
xuống mà đi.
- Về đến nhà,
nhìn thấy các con, càng nghĩ càng tủi hổ vì chúng nó “cũng bị người ta rẻ
rúng, hắt hủi”. Ông giận những người ở lại làng, nhưng điểm mặt từng người
thì lại không tin họ “đổ đốn” ra thế. Nhưng cái tâm lí “không có lửa
làm sao có khói”, lại bắt ông phải tin là họ đã phản nước hại dân.
- Ba bốn ngày
sau, ông không dám ra ngoài. Cai tin nhục nhã ấy choán hết tâm trí ông thành
nầi ám ảnh khủng khiếp. Ông luôn hoảng hốt giật mình. Khong khí nặng nề bao
trùm cả nhà.
- Tình cảm yêu
nước và yêu làng còn thể hiện sâu sắc trong cuộc xung đột nội tâm gay gắt: Đã
có lúc ông muốn quay về làng vì ở đây tủi hổ quá, vì bị đẩy vào bế tắc khi có
tin đồn không đâu chứa chấp người làng chợ Dầu. Nhưng tình yêu nước, lòng trung
thành với kháng chiến đã mạnh hơn tình yêu làng nên ông lại dứt khoát: “Làng
thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù”. Nói cứng như vậy nhưng thực
lòng đau như cắt.
- Tình cảm đối
với kháng chiến, đối với cụ Hồ được bộc lộ một cách cảm động nhất khi ông chút
nầi lòng vào lời tâm sự với đứa con út ngây thơ. Thực chất đó là lời thanh minh
với cụ Hồ, với anh em đồng chí và tự nhủ mình trong những lúc thử thách căng
thẳng này:
+ Đứa con ông bé
tí mà cũng biết giơ tay thề: “ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm!” nữa là
ông, bố của nó.
+ Ông mong “Anh
em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con
ông”.
+ Qua đó, ta thấy rõ:
·
Tình yêu sâu nặng đối với làng chợ Dầu truyền thống (chứ
không phải cái làng đổ đốn theo giặc).
·
Tấm lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng với kháng
chiến mà biểu tượng của kháng chiến là cụ Hồ được biẻu lộ rất mộc mạc, chân
thành. Tình cảm đó sâu nặng, bền vững và vô cùng thiêng liêng : có bao giờ
dám đơn sai. Chết thì chết
có bao giờ dám đơn sai.
d. Khi cái tin kia được cải chính, gánh
nặng tâm lí tủi nhục được trút bỏ, ông Hai tột cùng vui sướng và càng tự hào về
làng chợ Dầu.
- Cái cách ông đi khoe việc Tây đốt sạch nhà
của ông là biểu hiện cụ thể ý chí “Thà hi sinh tất cả chứ không chịu mất
nước” của người nông dân lao động bình thường.
- Việc ông kể rành rọt về trận chống càn ở
làng chợ Dầu thể hiện rõ tinh thần kháng chiến và niềm tự hào về làng kháng
chiến của ông.
3. Nhân vạt ông Hai để lại một dấu ấn
không phai mờ là nhờ nghệ thuật miêu tả tâm lí tính cách và ngôn ngữ nhân vật
của người nông dân dưới ngòi bút của Kim Lân.
- Tác giả đặt nhân vật vào những tình huống
thử thách bên trong để nhân vật bộc lộ chiều sâu tâm trạng.
- Miêu tả rất cụ thể, gợi cảm các diễn biến
nội tâm qua ý nghĩ, hành vi, ngôn ngữ đối thoại và độc thoại.
Ngôn ngữ của Ông Hai vừa có nét chung của
người nông dân lại vừa mang đậm cá tính nhân vật nên rất sinh động.
C- Kết bài:
- Qua nhân vật ông Hai, người đọc thấm thía
tình yêu làng, yêu nước rất mộc mạc, chân thành mà vô cùng sâu nặng, cao quý
trong những người nông dân lao động bình thường.
- Sự mở rộng và thống nhất tình yêu quê
hương trong tình yếu đất nước là nét mới trong nhận thức và tình cảm của quần
chúng cách mạng mà văn học thời kháng chiến chống Pháp đã chú trọng làm nổi
bật. Truyện ngắn Làng của Kim Lân là một trong những thành công đáng quý.