Câu1: (3 điểm)
Yêu cầu :
- Chép chính xác
4 dòng thơ :
"Xót
người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm."
- Nhận xét cách
sử dụng từ ngữ hình ảnh trong đoạn thơ : dùng những điển tích, điển cố sân Lai,
gốc tử để thể hiện nỗi nhớ nhung và sự đau đớn, dằn vặt không làm tròn chữ hiếu
của Kiều. Các hình ảnh đó vừa gợi sự trân trọng của Kiều đối với cha mẹ vừa thể
hiện tấm lòng hiếu thảo của nàng.
Câu 2: (6điểm)
Nêu được những cảm nghĩ về nhân vật Lục Vân Tiên :
a. Hình ảnh Lục
Vân Tiên được khắc hoạ qua mô típ ở truyện Nôm truyền thống : một chàng trai
tài giỏi, cứu một cô gái thoát khỏi hiểm nghèo, từ ân nghĩa đến tình yêu... như
Thạch Sanh đánh đại bàng, cứu công chúa Quỳnh Nga. Mô típ kết cấu đó thường
biểu hiện niềm mong ước của tác giả và cũng là của nhân dân. Trong thời buổi
nhiễu nhương hỗn loạn này, người ta trông mong ở những người tài đức, dám ra tay
cứu nạn giúp đời.
b. Lục Vân Tiên
là nhân vật lí tưởng. Một chàng trai vừa rời trường học bước vào đời lòng đầy
hăm hở, muốn lập công danh, cũng mong thi thố tài năng cứu người, giúp đời. Gặp
tình huống bất bằng này là một thử thách đầu tiên, cũng là một cơ hội hành động
cho chàng.
c. Hành động
đánh cướp trước hết bộc lộ tính cách anh hùng, tài năng và tấm lòng vị nghĩa
của Vân Tiên. Chàng chỉ có một mình, hai tay không, trong khi bọn cướp đông
người, gươm giáo đầy đủ, thanh thế lẫy lừng : "người đều sợ nó có tài
khôn đương". Vậy mà Vân Tiên vẫn bẻ cây làm gậy xông vào đánh cướp.
Hình ảnh Vân Tiên trong trận đánh được miêu tả thật đẹp - vẻ đẹp của người dũng
tướng theo phong cách văn chương thời xưa, nghĩa là so sánh với những mẫu hình
lí tưởng như dũng tướng Triệu Tử Long mà người Việt Nam, đặc biệt là người Nam
Bộ vốn mê truyện Tam quốc không mấy ai không thán phục. Hành động
của Vân Tiên chứng tỏ cái đức của con người vị nghĩa vong thân, cái tài của bậc
anh hùng và sức mạnh bênh vực kẻ yếu, chiến thắng những thế lực tàn bạo.
d. Thái độ cư xử
với Kiều Nguyệt Nga sau khi đánh cướp bộc lộ tư cách con người chính trực, hào
hiệp, trọng nghĩa khinh tài đồng thời cũng rất từ tâm, nhân hậu. Thấy hai cô
con gái còn chưa hết hãi hùng, Vân Tiên động lòng tìm cách an ủi họ : "ta
đã trừ dòng lâu la" và ân cần hỏi han. Khi nghe họ nói muốn
được lạy tạ ơn, Vân Tiên vội gạt đi ngay : "Khoan khoan ngồi đó chớ ra".
Ở đây có phần câu nệ của lễ giáo phong kiến nhưng chủ yếu là do đức tính khiêm
nhường của Vân Tiên : "Làm ơn há dễ trông người trả ơn". Chàng
không muốn nhận cái lạy tạ ơn của hai cô gái, từ chối lời mời về thăm nhà của
Nguyệt Nga để cha nàng đền đáp và ở đoạn sau từ chối nhận chiếc trâm vàng của
nàng, chỉ cùng nhau xướng hoạ một bài thơ rồi thanh thản ra đi, không hề vương
vấn. Dường như đối với Vân Tiên, làm việc nghĩa là một bổn phận, một lẽ tự
nhiên, con người trọng nghĩa khinh tài ấy không coi đó là công trạng. Đó là
cách cư xử mang tinh thần nghĩa hiệp của các bậc anh hùng hảo hán.
Câu 3: Thành
phần chính: những bông hoa bằng lăng đã
thưa thớt
Thành
phần phụ : Ngoài cửa sổ bấy giờ