Giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm Chí Phèo.
Trong dòng văn
học hiện thực phê phán 1930-1945. Chí Phèo có lẽ là tác
phẩm thành công
hơn cả trong việc đem lại cho người đọc những ấn tượng mạnh
mẽ, không thể
quên về bức tranh đen tối ngột ngạt, bế tắc của nông thôn Việt Nam
trước Cách mạng
tháng Tám, đồng thời thức tỉnh cái phần lương tri tốt đẹp nhất của
con người, khơi
dậy lòng căm ghét cái xã hội vạn ác đã chà đạp lên nhân phẩm con
người, thương
xót, cảm thông với những thân phận cùng đinh bị giày vò, tha hóa
trong chế độ
cũ.
Căm ghét xã hội
thực dân phong kiến thối nát, phê phán mãnh liệt các
thế lực thống
trị xã hội, trên cơ sở cảm thông, yêu thương trân trọng con người, nhất
là những con
người bị vùi dập, chà đạp, đó là cảm hứng chung của các nhà văn
hiện thực phê
phán giai đoạn 30-45. Tuy nhiên, trong tác phẩm Chí Phèo, Nam Cao
đã khám phá
hiện thực ấy bằng một cái nhìn riêng biệt. Nam Cao không trực tiếp
miêu tả quá
trình bần cùng, đói cơm, rách áo dù đó cũng là một hiện thực phổ biến.
Nhà văn trăn
trở, suy ngẫm nhiều hơn đến một hiện thực con người: con người
không được là
chính mình, thậm chí, không còn được là con người mà trở thành một
con “quỉ dữ”,
bởi âm mưu thâm độc và sự chà đạp của một guồng máy thống trị tàn
bạo. Với một
cái nhìn sắc bén, đầy tính nhân văn, bằng khả năng phân tích lý giải
hiện thực hết
sức tinh tế, bằng vốn sống dồi dào và trái tim nhân ái, nhà văn đã xây
dựng nên một
tác phẩm với những giá trị hiện thực và nhân đạo đặc sắc không thể
tìm thấy ở các
nhà văn đương thời.
Thật ra trong
bất cứ tác phẩm nghệ thuật chân chính nào, giá trị hiện thực
bao giờ cũng đi
liền với giá trị nhân đạo. Tác phẩm càng xuất sắc, những giá trị ấy
càng thẩm thấu,
thống nhất với nhau, khó tách rời. Chí
Phèo của Nam Cao cũng
không nằm ngoài
quy luật ấy. Bởi vì nội dung phản ánh (và tiếp nhận) – yêu
thương, trân
trọng hay căm ghét, khinh bỉ? Tách riêng ra hai giá trị là làm phá vỡ sự
gắn liền hữu cơ
của một chỉnh thể nghệ thuật vốn dĩ thống nhất.
Đọc xong tác
phẩm Chí Phèo ta thấy gì? Mở
đầu tác phẩm là cảnh Chí
Phèo ngật
ngưởng trên đường đi vừa chửi, từ trời đến người, tiếng chửi hằn học, cay
độc và chua
xót. Kết thúc là cảnh Chí Phèo giãy đành đạch giữa bao nhiêu là máu
tươi. Bao trùm
lên tất cả, tác phẩm ám ảnh ta một không khí ngột ngạt, bế tắc đến
khủng khiếp,
đầy những mâu thuẫn không thể dung hòa của một làng quê Việt
Nam trước Cách mạng, với bao cảnh cướp bóc,
dọa nạt, giết chóc, ăn vạ, gây gổ…
trong đó Chí
Phèo hiện lên như một biếm họa tiêu biểu. Hãy nghe nhà văn miêu
tả: “Bây giờ
thì hắn trở thành người không tuổi rồi. Ba mươi tám hay ba mươi chín?
Bốn mươi hay là
ngoài bốn mươi. Cái mặt hắn không trẻ cũng không già; nó không
còn phải là mặt
người: nó là mặt một con vật lạ, nhìn mặt những con vật có bao giờ
biết tuổi?. Sau
khi ở tù về, hắn đã trở thành một con quỉ dữ của làng Vũ Đại mà
không tự biết.
Cuộc đời hắn không có ngày tháng bởi những cơn say triền miên.
Hắn ăn trong
lúc say, thức dậy vẫn còn say, đập đầu rạch mặt, chửi bới, dọa nạt
trong lúc say,
uống rượu trong lúc say, để rồi say nữa, say vô tận. Chưa bao giờ hắn
tỉnh và có lẽ
chưa bao giờ hắn tỉnh để nhớ hắn có ở đời. Có lẽ hắn cũng biết rằng
hắn là quỉ dữ
của làng Vũ Đại để tác quái cho bao nhiêu dân làng. Hắn đâu biết
hắn đã phá bao
nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đập đổ bao nhiêu
hạnh phúc, làm
chảy máu nước mắt của bao nhiêu người lương thiện… Tất cả dân
làng đều sợ hắn
và tránh mặt hắn mỗi lần hắn qua…”
Đoạn văn chất
chứa bao nhiêu nỗi thống khổ của một thân phận đã không
còn được cuộc
sống của một con người. Những năng lực vốn có của một con người
– năng lực cảm
xúc, nhận thức – hầu như bị phá huỷ, chỉ còn lại năng lực đâm
chém, phá
phách. Chí Phèo bị phá huỷ nhân tính lẫn nhân hình như thế bởi đâu?
Nhà văn không
tập trung miêu tả dông dài quá trình tha hóa ấy. Ông thiên về lí giải
phân tích cái
cội nguồn sâu xa dẫn đến kết cục bi thảm của nó, chỉ bằng một số
phác thảo đơn
sơ về Bá Kiến, về nhà tù, về bà cô Thị Nở, về dư luận xã hội nói
chung… Trong
hàng loạt mối liên kết ấy, người đọc dễ dàng nhận ra: sở dĩ Chí
Phèo (và không
chỉ Chí Phèo mà cả những Năm Thọ, những Binh Chức – cả một
tầng lớp được
nhà văn cá thể hóa qua nhân vật Chí Phèo) từ một thanh niên lành
như cục đất hoá
thành con quỉ dữ là bởi vì Chí, ngay từ thuở lọt lòng đã thiếu hẳn
tình ấp ủ yêu
thương, và đặc biệt khi lớn lên, chỉ được đối xử bằng rẻ khinh, thô
bạo và tàn nhẫn.
Thủ phạm trực tiếp là Bá Kiến được nhà văn miêu tả là một con
cáo già “khôn
róc đời”, “ném đá dấu tay”, “già đời trong nghề đục khoét”, biết thế
nào là “mềm nắn
rắn buông”, “Hay ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông, nhưng lại
dắt nó lên để
nó đền ơn. Hay đập bàn đập ghế đòi cho được 5 đồng, nhưng được rồi
lại vứt trả lại
5 hào vì thương anh túng quá!”. Chính hắn đã lập mưu đẩy Chí Phèo
vào chỗ tù tội
oan uổng và sau đó sử dụng Chí Phèo như một tay sai đắc lực phục vụ cho lợi ích
và mưu đồ đen tối của mình. Không có Bá Kiến thì không có Chí
Phèo, nhưng Chí
Phèo không chỉ là sản phẩm của sự thống trị mà thậm chí là
phương tiện tối
ưu để thống trị: “không có những thằng
đầu bò thì lấy ai mà trị mấy
thằng đầu bò”. Chính
Bá Kiến đã rút ra cái kết luận mà theo hắn rất chí lí ấy. Là
một tội nhân,
nham hiểm, nhẫn tâm, nhưng Bá Kiến lại hiện ra bề ngoài như một
kẻ ôn hòa, xởi
lởi, biết điều, khiến người đời phải nhìn bằng cặp mắt “kính cẩn”…
Vì thế mà hắn
đã lường gạt được bao nhiêu dân chất phác lương thiện. Chí Phèo trở
thành tay chân
đắc lực của hắn; thật sự biến thành công cụ, phương tiện thống trị
cho kẻ thù của
mình mà không tự biết. Bá Kiến hiện ra trong tác phẩm Chí Phèo
như một nhân
vật điển hình, sống động và cá biệt, tiêu biểu cho một bộ phận của
giai cấp thống
trị, được miêu tả, khám phá dưới một ngòi bút bậc thầy. Cùng với
hắn là Lý
Cường, là chánh Tổng, là đội Tảo… Chính bọn chúng đem lại không khí
ngột ngạt khó
thở cho nông thôn Việt Nam
thành cái thế “Quần ngư tranh thực”
(bọn đàn anh
chỉ là một đàn cá tranh mồi, chỉ trực rình rập tiêu diệt nhau). Chính
chúng là thủ
phạm gây ra bi kịch của những Chí Phèo… Số phận của Năm Thọ,
Binh Chức, tuy
chỉ được nhắc qua tác phẩm, nhưng cũng góp phần chỉ ra tính hệ
thống và phổ
biến của phương cách tha hóa người dân trong sự thống trị của chúng.
Đằng sau những
Bá Kiến, Lý Cường, Chánh Tổng… như một sự hỗ trợ gián tiếp
nhưng tích cực
là hệ thống nhà tù dã man, bẩn thỉu – cả một điều kiện môi trường
bất hảo. Quá
trình Chí Phèo ở tù không được miêu tả trực tiếp, chỉ biết rằng khi
vào tù Chí Phèo
là người hiền lành lương thiện. Ra khỏi tù, hắn trở về với cái vẻ
hung đồ, cái
thói du côn ương ngạnh học được từ đấy. Nhà văn chỉ nói có thế.
Nhưng như thế
với bạn đọc thông minh cũng đã quá đủ!
Bằng bút pháp
độc đáo, tài hoa linh hoạt, giàu biến hóa, Nam Cao khi tả,
khi kể theo một
kết cấu tâm lý và mạch dẫn dắt của câu chuyện với một cách thức
bề ngoài tưởng
chừng như khách quan, lạnh lùng và tàn nhẫn, nhưng chất chứa bên
trong biết bao
nỗi niềm quằn quại, đau đớn trước thân phận đau đớn của kiếp
người. Lồng vào
bức tranh hiện thực trên kia là thái độ yêu ghét, là cách phân tích
và đánh giá
những vấn đề về hiện thực mà nhà văn đặt ra. Ngay việc lựa chọn một
nhân vật cùng
đinh thống khổ nhất của xã hội làm đối tượng miêu tả và gởi gắm
biết bao thông
cảm, suy tư thương xót… tự nó đã mang nội dung nhân đạo. Nhưng
giá trị nhân
đạo của tác phẩm thể hiện tập trung nhất ở cách nhìn nhận của nhà văn
đối với nhân
vật bị tha hóa đến tận cùng. Nam Cao vẫn phát hiện trong chiều sâu
của nhân vật
bản tính tốt đẹp vốn dĩ, chỉ cần chút tình thương chạm khẽ vào là có
thể sống dậy
mãnh liệt, tha thiết. Sự xuất hiện của nhân vật Thị Nở trong tác phẩm
có một ý nghĩa
thật đặc sắc. Con người xấu đến “ma
chê quỉ hờn”, kỳ diệu thay, lại
là nguồn ánh
sáng duy nhất đã rọi vào chốn tối tăm của tâm hồn Chí Phèo thức
tỉnh, gợi dậy
bản tính người nơi Chí Phèo, thắp sáng một trái tim đã ngủ mê qua
bao ngày tháng
bị dập vùi, hất hủi. Sau cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với Thị Nở, Chí
Phèo giờ đây đã
nhận ra nguồn ánh sáng ngoài kia rực rỡ biết bao, nghe ra một
tiếng chim vui
vẻ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng lao xao của
người đi chợ
bán vải… Những âm thanh ấy bao giờ chả có. Nhưng hôm nay Chí
mới nghe thấy.
Chao ôi là buồn, trong cái phút tỉnh táo ấy, Chí Phèo như đã thấy
tuổi già của
hắn, đói rét, ốm đau và cô độc – cái này còn sợ hơn đói rét và ốm đau.
Cũng may Thị Nở
mang bát cháo hành tới. Nếu không, hắn đến khóc
được mất trong
tâm trạng như thế… Nhìn bát cháo bốc khói mà lòng Chí Phèo xao
xuyến bâng khuâng:
Hắn cảm thấy lòng thành trẻ con, hắn muốn làm nũng với thị
như làm nũng
với mẹ… Ôi sao mà hắn hiền! “Hắn thèm lương thiện – Hắn khát
khao làm hòa
với mọi người”… Từ một con quỉ dữ, nhờ Thị Nở, đúng hơn nhờ tình
thương của Thị
Nở, Chí thực sự được trở lại làm người, với tất cả những năng lực
vốn có. Một
chút tình thương, dù là tình thương của một con người dở hơi, bệnh
hoạn, thô kệch,
xấu xí,… cũng đủ để làm sống dậy cả một bản tính người nơi Chí
Phèo. Thế mới
biết sức cảm hóa của tình thương kỳ diệu biết nhường nào!
Bằng chi tiết
này, Nam Cao đã soi vào tác phẩm một ánh sáng nhân đạo
thật đẹp đẽ –
Nhà văn như muốn hòa vào nhân vật để cảm thông, chia sẻ những
giây phút hạnh
phúc thật hiếm hoi của Chí Phèo…
Nhưng, bi kịch
và đau đớn thay, rốt cuộc thì ngay Thị Nở cũng không thể
gắn bó với Chí
Phèo. Chút hạnh phúc nhỏ nhoi cuối cùng vẫn không đến được với
Chí Phèo. Và
thật là khắc nghiệt, khi bản tính người nơi Chí Phèo trỗi dậy, cũng là
lúc Chí Phèo
hiểu rằng mình không còn trở về với lương thiện được nữa. Xã hội đã
cướp đi của Chí
quyền làm người và vĩnh viễn không trả lại. Những vết dọc ngang
trên mặt, kết
quả của bao nhiêu cơn say, bao nhiêu lần đâm chém, rạch mặt ăn
vạ… đã bẻ gãy
chiếc cầu nối Chí với cuộc đời. Và, như Đỗ Kim Hồi nói, “một khi
người được nếm
trải chút ít hương vị làm người thì cái xúc cảm người sẽ không thể
mất… Đấy là mối
bi thảm tột cùng mà cách giải quyết chỉ có thể là cái chết”.
(Tạp chí văn học số 3-1990)
Cái chết bi
thảm của Chí Phèo là lời kết tội đanh thép cái xã hội vô nhân
đạo, là tiếng
kêu cứu về quyền làm người, cũng là tiếng gọi thảm thiết cấp bách:
Hãy cứu lấy con
người! Hãy yêu thương con người!
Đó là tư tưởng,
tình cảm lớn mang giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc
mà người đọc
rút ra được từ những trang sách giàu tính nghệ thuật của Nam Cao.
Sự kết hợp giữa
giá trị hiện thực sắc bén và giá trị nhân đạo cao cả đã làm cho tác
phẩm Chí Phèo
bất tử, mãi mãi có khả năng đánh thức trí tuệ và khơi dậy những
tình cảm đẹp đẽ
trong tâm hồn người đọc mọi thời đại.