Xưa nay, có nhà thơ nào ngắm trăng mà lại không cần
đến rượu, chí ít cũng có hoa. Có rượu để thêm một chút men nồng, đã có thể cất
chén cùng trăng đối ẩm. Có hoa để nhận ra ánh trăng sáng tỏ, lung linh. Chả thế
mà thi hào Lí Bạch đã từng: Cất chén mời trăng sáng.
Còn Nguyễn Du thì ca ngợi: Khi chén rượu, khi cuộc cờ
Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên.
Chính tác giả Nhật kí trong tù, mấy năm sau,
trong hoàn cảnh tự do, đã thấm thía hết sức cái đẹp của cảnh: Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa.
Nhưng nói “không rượu cũng không hoa” là để nói
cho hết cái không thuận lợi của hoàn cảnh, chứ không phải để vịn vào hoàn cảnh
mà đổ lỗi cho nó. Hoàn cảnh khách quan thì vậy song chủ quan nhà thơ thì lại
khác:
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ
Nguyên văn: Đối thử lương tiêu nại nhược hà, dịch
nghĩa là: Trước đêm lành như đêm nay, biết làm sao được? Về hình thức, câu thơ
này hình như chỉ ca ngợi đêm trăng đẹp. Trăng đẹp quá, đẹp đến nỗi, dẫu trong
hoàn cảnh khó khăn đến thế, bị tù đày như thế, thiếu thốn như thế, con người
cũng không thể nào không nhận ra vẻ đẹp ấy, không thể nào không yêu, không say
mê vẻ đẹp ấy. Thật ra đó chỉ là một cách nói. Trong đời, thiếu gì lắm kẻ đứng
trước những vẻ đẹp tuyệt vời của trời đất mà lòng vẫn dửng dưng như không. Cảnh
muốn đẹp phải có lòng người biết nhận vẻ đẹp. Cho nên câu thơ trên chính là
cung đàn ngân vang lên từ cõi tâm hồn sâu thẳm của nhà thơ khi ánh trăng kia
vừa chạm tới. Tâm hồn ấy nghệ sĩ biết bao, rộng mở với vẻ đẹp của đất trời biết
bao, tinh tế và nhạy cảm biết bao. Tâm hồn ấy cũng mạnh mẽ, bất khuất biết bao!
Nhà tù, xiềng xích, có thể giam cầm cùm trói được ai kia, chứ làm sao có thể
cùm trói, giam hãm được tâm hồn của người nghệ sĩ tuyệt vời này? Cửa sắt của
nhà tù tự nó phải mở ra, xiềng xích tự nó phải đứt tung. Tâm hồn con người này
đồng điệu với vầng trăng kia biết bao, cho nên tìm đến trăng là phải. Giờ đây,
còn lại một nhà thơ đối diện với một vầng trăng:
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.
Người ngắm trăng và trăng ngắm người: bởi không chỉ
người nhìn thấy trăng là bạn mà trăng cũng tìm ra người bạn ở người. Câu thơ,
trong nguyên văn chữ Hán, đã tạo nên một bức tranh đẹp kỳ lạ: Nhân hướng song tiền khán
minh nguyệt,
Nguyệt tòng song khích khán thi gia.
Giữa nhân và nguyệt hình như có một vật cản là
“song” (cửa sổ) nhưng ở đây cái vật cản ấy lại trở thành một phụ họa, kẻ
dẫn đường cho “nhân” và ”nguyệt” tìm đến với nhau, đồng cảm với
nhau, trong cùng một hành động: khán (nhìn). Phép đối của thơ Đường luật gò bó
ở đâu không biết, chứ ở hai câu thơ này thì đã tỏ ra đầy hiệu quả thẩm mỹ.
Không còn ranh giới giữa người với trăng nữa, hồn người vút lên trăng, ánh
trăng tỏa xuống người, người là trăng mà trăng cũng là người, trăng cũng mê say
như người và người cũng tỏa sáng như trăng: ở hai phía cửa sổ là hai con người;
ở hai phía cửa sổ cũng là hai vầng trăng.
Yêu thiên nhiên đến độ đồng cảm với thiên nhiên, ấy đã
là một tình yêu lớn. Nhưng yêu trăng đến độ hòa nhập với trăng như thế, ấy là
đã vượt ra khỏi độ thường tình của tình yêu, ấy là tình yêu chỉ những nhân cách
thực sự thanh cao mới có. Bài thơ mở bằng “trong tù” nhưng đóng lại bằng “thi
gia”. Trong ngục mà không có người tù, lại chỉ có nhà thơ. Cách đóng lại thật
bất ngờ và thú vị. Bất ngờ nhưng hợp lẽ và hợp tình. Bởi với một tình cảm như
thế, một tâm hồn như thế, quả không nhà tù nào còn có nghĩa nữa.
Tình cảm ấy, nhân cách ấy thật là một thứ thép quý mà
không một thứ độc tố nào, một thứ bùn nhơ nào trong cuộc đời có thể làm mờ đục
được, hoen rỉ được. “Vọng nguyệt” chính là một trong những bài thơ “mang
chất thép, mà không lên giọng thép” vậy.