Ví dụ
1:- Bài tập: Viết đoạn văn
tổng phân hợp dài 10 – 12 câu, phân tích Quang Trung là bậc kì tài quân sự (qua
hồi 14 trong tác phẩm “ Hoàng Lê nhất
thống chí” của Ngô gia văn phái).
- Đoạn văn
minh hoạ 1:
Đọc hồi thứ 14 “ Hoàng Lê nhất thống chí”
của Ngô gia văn phái, ta thấy tác giả đã xây dựng được một hình tượng kì vĩ
tráng lệ là người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ; Nguyễn Huệ (xưng vương là Quang
Trung) là một bậc kì tài quân sự (1). Khi nghe được tin cấp báo quân Thanh
sang xâm lược nước ta, ông vạch phương hướng ràng (2). Ông trực tiếp chỉ huy
đại binh tiến ra Bắc thần tốc, bí mật chưa từng thấy trong lịch sử (3). Ông có
tài điều binh khiển tướng, tài đó được thể hiện rõ trong lời dụ của ông trước
ba quân và thể hiện trong cách xử tướng (4). Lời dụ của ông trước quân tướng
sang sảng, hùng hồn như lời hịch lúc ra quân, kích thích lòng yêu nước, khơi
gợi chí căm thù và khích lệ tinh thần xả thân cứu nước (5). Cách đánh giặc của
ông đa dạng, linh hoạt, phong phú, luôn ở thế chủ động khiến giặc trở tay không
kịp (6). Khi thì bao vây đánh giặc ở Hà Hồi, lúc thì áp sát đánh giặc dũng cảm
sáng tạo ở Ngọc Hồi, lúc đánh nghi binh ở đê Yên Duyên, khi mai phục ở Đầm
Mực,… (7)Quân Tây Sơn dưới sự chỉ huy của Quang Trung tiến quân như vũ bão
khiến giặc đại bại “ thây chất đầy đồng, máu trôi đỏ nước’, tướng Sầm Nghi Đống
“ thắt cổ tự vẫn”, Tôn Sĩ Nghị bỏ chạy về nước “ ngựa không kịp đóng yên”,… (8)Quả thật, Quang Trung là bậc anh hùng lão
luyện, là nhà quân sự đại tài mà lịch sử đời đời ghi nhớ, nhân dân ta đời đời
biết ơn (9). Xây dựng và khắc hoạ
hình tượng người anh hùng Nguyễn Huệ là một thành công đặc sắc của các văn sĩ
trong “ Ngô gia văn phái” (10). Nó làm cho trang văn “ Hoàng Lê nhất thống chí”
thấm đẫm chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng Đại Việt (11).
Mô
hình cấu trúc đoạn văn: Đoạn văn tổng phân hợp:
Câu chủ
đề bậc 1: câu 1. Giới thiệu Quang Trung là bậc kì tài quân sự.
Các câu
triển khai: câu 2 đến câu 8. Tài cầm quân của Nguyễn Huệ.
Câu chủ
đề bậc 2: câu 9,10, 11 (chùm câu đánh giá: nhân vật, tác giả, tác phẩm)
- Đoạn văn
minh hoạ 2:
Đọc Hồi thứ 14 “ Hoàng Lê nhất thống chí”
(Ngô gia văn phái), hình tượng người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ đã để lại trong
tâm hồn ta ấn tượng không phai mờ (1). Nguyễn
Huệ thật “ lão luyện dũng mãnh và có
tài cầm quân” (2). Ngày 24 tháng Chạp năm Mậu Thân (1788) nhận được tin cấp
báo về thế giặc ở Thăng Long, để danh chính ngôn thuận xuất quân đánh giặc cõi
Bắc, ông lên ngôi hoàng đế lấy niên hiệu là Quang Trung (3). Ngày 25 còn ở
Thuận Hoá thế mà ngày 19 đã hành quân tới Nghệ An, mộ thêm binh tinh, tổ chức
duyệt binh và truyền hịch đánh giặc cứu nước (4). Chỉ hơn một ngày đêm, ông dã
kéo quân tới Tam Điệp, lệnh cho tướng sĩ ăn tết trước, hẹn đến mùng 7 vào thành
Thăng Long sẽ mở tiệc ăn mừng, rồi chia đại quân thành 5 đạo binh lớn “ gióng trống lên đường ra Bắc” (5). Ông
đã lấy yếu tố bất ngờ để đánh thắng giặc: bắt sống toàn bộ quân giặc do thám ở
sông Thanh Quyết và đồn Hà Hồi; bao vây tiêu diệt đồn Ngọc Hồi, hàng vạn giặc
bị giết “ thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối” (6). Tại Đầm Mực làng Quỳnh
Đô, giặc Thanh bị bủa vây “ quân Tây Sơn lùa voi cho giày đạp, chết đến hàng
vạn người” (7). Trong khi đó, một trận “ rồng lửa” diễn ra ác liệt tại Khương
Thượng, xác giặc chất thành 12 gò cao như núi (8). Nguyễn Huệ đã tiến công như
vũ bão, khác nào “ Tướng ở trên trời rơi
xuống, quân chui dưới đất lên”, làm cho Tôn Sĩ Nghị “ sợ mất mật ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp…nhắm
hướng bắc mà chạy” (9). Trưa mùng 5, Nguyễn Huệ và đại quân kéo vào thành
Thăng Long trước kế hoạch tác chiến 2 ngày (10). Chiến thắng Đống Đa năm Kỉ Dậu (1789) đã dựng lên tượng đài tráng lệ,
hùng vĩ về vua Quang Trung để dân tộc ta đời đời tự hào và ngưỡng mộ:
“ Mà nay áo vải cờ đào
Giúp dân dựng nước biết bao công
trình”
(“ Ai tư vãn” - Ngọc Hân công chúa) (11).
Mô
hình cấu trúc doạn văn: Đoạn văn tổng phân hợp:
Câu chủ
đề bậc 1: câu 1. Giới thiệu nhận định về Nguyễn Huệ.
Các câu
khai triển: câu 2 -10. Chứng minh tài cầm quân của Nguyễn Huệ.
Câu chủ
đề bậc 2: câu 11. Cảm nghĩ về hình tượng người anh hùng.
Ví dụ
2:- Bài tập: Viết một đoạn
văn diễn dịch, phân tích lòng yêu nghề, say mê công việc của anh thanh niên
trong tác phẩm “ Lặng lẽ Sa Pa” của
Nguyễn Thành Long (kết thúc đoạn là một câu cảm thán).
- Đoạn văn minh
hoạ:
Anh thanh niên trong truyện ngắn “ Lặng lẽ
Sa Pa” của Nguyễn Thành Long là một người yêu nghề, say mê công việc, có tinh
thần trách nhiệm cao. Công việc của anh là làm công tác khí tượng kiêm vật
lí địa cầu với nhiệm vụ cụ thể là đo gió, đo mưa, tính nắng, tính mây, đo sự
chấn động của vỏ trá đất. Anh làm việc đó một mình ở đỉnh Yên Sơn cao 2600 mét
, nơi chỉ có cây cỏ và sương mù bao phủ quanh năm. Công việc anh làm gian khổ,
thầm lặng nhưng có ý nghĩa giúp dự báo thời tiết để nhân dân ta sản xuất và
chiến đấu. Phải là người yêu nghề, say mê với công việc, anh mới trụ vững ở
đỉnh Yên Sơn, mới chiến thắng được sự cô đơn một mình. Đam mê với công việc nên
anh tìm thấy niềm vui trong công việc “ Khi ta làm việc, ta với công việc là đôi,
sao có trể gọi là một mình được”. Thật cảm động khi anh tâm sự bày tỏ với
ông hoạ sĩ “ Công việc gian khổ như thế
đấy, nhưng cất nó đi, cháu buồn chết đi được”. Suy nghĩ của anh chính là suy nghĩ của thế hệ trẻ ở thập niên 70 của
thế kỉ XX, thật đẹp biết bao!”
Mô
hình cấu trúc đoạn văn: Đoạn văn diễn dịch:
Câu chủ
đề: câu 1. Nêu đặc điểm bao quát của anh thanh niên.
Các câu
sau triển khai chứng minh cho đặc điểm đó.
Câu kết
đoạn đánh giá suy nghĩ về lẽ sống đẹp của anh.
Ví dụ 3:- Bài tập:
Viết
một đoạn văn khoảng 10 – 12 câu, theo cách lập luận diễn dịch phân tích về đặc
điểm nổi bật của nhân vật ông Hai trong truyện Ngắn “ Làng” của Kim Lân. Đoạn văn có sử dụng yếu tố miêu tả, biểu cảm
(gạch chân yếu tố miêu tả, biểu cảm đó).
- Đoạn văn
minh hoạ:
Ông Hai trong truyện ngắn “ Làng” của kim
Lân là nhân vật điển hình cho người nông dân trong kháng chiến chống Pháp có
tình yêu làng, yêu nước cảm động.
Ông Hai yêu làng Chợ Dầu của mình nên thường khoe và tự hào làng của ông là
làng cách mạng, làng kháng chiến. Vì hoàn cảnh ông phải đi tản cư, ông luôn nhớ
về làng “ Chao ôi, lão thấy nhớ làng mình
quá!”. Gặp đoàn tản cư ông lão hỏi thăm tin tức làng Chợ Dầu thì được người
tản cư cho biết làng ông làm Việt gian theo Tây. Ông cảm thấy đau đớn, xấu
hổ “ da mặt tê rân rân, cổ nghẹn đắng
lại, không thở được”, “ông cúi gằm
mặt, lảng đi về nhà”. Tin dữ ám ảnh ông, biến ông thành con người
khác, chỉ ru rú ở nhà không dán ra ngoài, hay cáu bẳn, gắt gỏng. Khi mụ chủ
nhà có ý định đuổi khéo gia đình ông, ông rơi vào trạng thái bế tắc, tuyệt
vọng. Ở hoàn cảnh đó ông đấu tranh giằng xé: hay là về làng? Nhưng vừa nghĩ
ông đã gạt phắt đi vì về làng tức là theo Tây, bỏ Cụ Hồ, bỏ kháng chiến.
Trong sự bế tắc đó, ông tâm sự với con út như một cách ngỏ lòng mình rằng: ở
ông, tình yêu làng, trung thành với cách mạng, với kháng chiến không bao giờ
thay đổi. Khi được tin cải chính, ông Hai như người chết sống lại, ông lại sung
sướng đi khoe làng bị đốt, nhà mình bị cháy. Đó là minh chứng hùng hồn
chứng minh làng ông là làng Cách mạng, làng kháng chiến.
Mô
hình cấu trúc đoạn văn: Đoạn văn diễn dịch:
Câu chủ
đề là câu mở đoạn: nêu đặc điểm nổi bật của nhân vật ông Hai.
Các câu
sau triển khai chứng minh lòng yêu làng, yêu nước của ông Hai.
Ví dụ 4:- Bài tập: - Viết một đoạn văn theo kiểu quy nạp, phân tích tâm
hồn trong sáng, mơ mộng, tinh thần dũng cảm của cô thanh niên xung phong Phương
Định trong tác phẩm “ Những ngôi sao xa
xôi” của nhà văn Lê Minh Khuê. Trong đoạn văn, sử dụng ít nhất hai phép
liên kết câu (gạch dưới những từ ngữ này)
-
Đoạn văn minh hoạ:
“ Những
ngôi sao xa xôi” của nữ nhà văn Lê Minh Khuê kể về ba nữ thanh niên xung phong là Nho, Phương định và chị Thao làm thành
“tổ trinh sát mặt đường”. Họ ở trên
một cao điểm giữa một vùng trong điểm trên tuyến đường Trường Sơn – con đường
huyết mạch, con đường nối hậu phương miền Bắc với tiền phương miền Nam,
con đường trọng yếu của cuộc chiến tranh nhân dân thần thánh. Cả ba cô gái trong tác phẩm đều đáng
mến, đáng cảm phục. Nhưng người đọc
vẫn có ấn tượng sâu sắc nhất với Phương
Định. Vốn là một cô gái thành
phố, thích mơ mộng, cô có một thời
học sinh hồn nhiên, vô tư bên người mẹ, một căn buồng nhỏ ở một đường phố yên
tĩnh. Những kỉ niệm ấy luôn sống lại trong cô ngay giữa chiến trường dữ dội. Nó
vừa là niềm khao khát, vừa làm dịu mát tâm hồn cô trong hoàn cảnh căng thẳng,
khốc liệt. Vào chiến trường đã ba năm, đã quen với những thử thách và nguy
hiểm, giáp mặt hằng ngày với cái chết, nhưng ở cô cũng như ở đồng đội không mất
đi sự hồn nhiên, trong sáng và những ước mơ về tương lai. Định còn là một cô
gái rất hồn nhiên, yêu đời và thích hát. Định hát ngay trong những khoảnh khắc
“im lặng”, khi máy bay trinh sát bay
rè rè. Cô hát cả khi “ máy bay rít, bom
nổ, nổ trên cao điểm, cách cái hang này khoảng 300 mét”. Đúng là “ tiếng hát át tiếng bom”. Cô yêu quý
hai người đồng đội, đặc biệt cô dành tình cảm và niềm cảm phục cho tất cả những
chiến sĩ mà cô gặp hằng đêm trên trọng điểm của con đường ra mặt trận. Cũng
giống như những cô gái mới lớn, Phương Định nhạy cảm và quan tâm tới hình thức
của mình: “ Nói một cách khiêm tốn tôi là
một cô gái khá, hai bím tóc dày tương đối mềm, cái cổ cao kiêu hãnh như đài hoa
loa kèn. Còn mắt tôi thì các anh lái xe bảo: Cô có cái nhìn sao mà xa xăm!” .
Cô biết mình được nhiều người, nhất là các anh lính trẻ để ý và có thiện cảm.
Điều đó làm cô thấy vui và cả tự hào nhưng chưa dành riêng tình cảm của mình
cho một ai. Nhạy cảm nhưng cô lại không hay bộc lộ tình cảm của mình, tỏ ra kín
đáo giữa đám đông, tưởng như là kiêu kì. Phương Định hay hồi tưởng về những kỉ
niệm của tuổi học trò hồn nhiên, vô tư pha một chút tinh nghịch và mơ nộng của
một thiếu nữ: “Cô hay ngồi trên thành cửa
sổ để hát, hát say sưa đến nỗi suýt lộn nhào xuống đất”! Công việc phá bom
đối với cô là một công việc quen thuộc nhưng cũng rất nguy hiểm. Thậm chí một
ngày phá tới năm quả bom. Mỗi lần là một thử thách với giây thần kinh cho tới
từng cảm giác. Nhân vật Phương Định còn để lại trong lòng người đọc những tình
cảm sâu sắc bởi chính tâm hồn trong sáng, mộng mơ của cô. Giữa tuyến lửa Trường
Sơn, cô vẫn dành một khoảng tâm hồn mình nhớ về hình ảnh người mẹ, nhớ về Hà
Nội, nhớ về những ngôi sao trên bầu trời thành phố, nhớ về cái vòm tròn của nhà
hát. Tất cả những kỉ niệm đó chính là niềm động viên, khích lệ cô gái hoàn
thành nhiệm vụ cao cả của mình. Hình ảnh của Phương Định cùng các đồng đội ,với vẻ đẹp của lòng dũng cảm,
vẻ đẹp của tinh thần lạc quan, yêu đời, vẻ đẹp của tâm hồn trong sáng mãi mãi
lung linh, toả sáng như những ngôi sao trên bầu trời.
Mô hình cấu trúc đoạn văn: Đoạn văn quy
nạp:
- Các câu trên phân tích, chứng minh những
vẻ đẹp của nhân vật Phương Định.
- Câu kết đoạn nêu cảm nhận, đánh giá về
nhân vật.
Phép
liên kết:
- Phép nối: Cả… nhưng.
- Phép thế: nữ thanh niên…họ…đồng đội; Phương
Định…gô gái…cô.
Luyện tập:
- Viết một đoạn văn có sử dụng phép lặp, phân tích
nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm “ Chuyện
người con gái Nam Xương” của nhà văn Nguyễn Dữ.
- Viết một đoạn văn có sử dụng phép nối, phân tích
nhân vật ông Hai trong tác phẩm “ Làng”
của Kim Lân.
- Viết một đoạn văn có sử dụng phép thế, phân tích
nhân vật anh thanh niên trong tác phẩm “ Lặnh
lẽ Sa Pa”
của Nguyễn Thành Long.
- Viết một đoạn văn quy nạp có sử dụng than từ, phân
tích tình yêu ba mãnh liệt của bé Thu trong truyện “ Chiếc lựơc ngà” của Nguyễn
Quang Sáng.
- Viết một đoạn văn theo kiểu diễn dịch, phân tích tâm
hồn trong sáng, mơ mộng, tinh thần dũng cảm của cô thanh niên xung phong Phương
Định trong tác phẩm “ Những ngôi sao xa
xôi” của nhà văn Lê Minh Khuê. Trong đoạn văn, sử dụng ít nhất hai phép
liên kết câu (gạch dưới những từ ngữ này)