A. HƯỚNG DẪN CHUNG
I. Thế nào
là đoạn văn?
Khái niệm đoạn văn ở trường phổ thông hiện nay được hiểu
theo nhiều cách khác nhau:
Cách hiểu
này khiến cho cách phân đoạn thiếu tính khách quan. Với cách hiểu này, diện mạo
đoạn văn không được xác định ( đoạn văn bắt đầu từ đâu, như thế nào, các câu văn
trong đoạn có mối liên kết với nhau như thế nào,…) cho nên việc xây dựng đoạn văn
trở nên khó khăn, phức tạp, khó rèn luyện các thao tác để trở thành kĩ năng kĩ
xảo.
- Cách hiểu thứ hai (đoạn lời): Đoạn văn được hiểu là
sự phân chia văn bản thành những phần nhỏ, hoàn toàn dựa vào dấu hiệu hình thức:
một đoạn văn bao gồm những câu văn nằm giữa hai dấu chấm xuống dòng.
Cách hiểu
này không tính tới tiêu chí nội dung, cơ sở ngữ nghĩa của đoạn văn. Với cách hiểu
này, việc rèn luyện xây dựng đoạn văn càng trở nên mơ hồ, khó xác định vì đoạn
văn không được xây dựng trên một cơ sở chung nào vì hình thức bao giờ cũng phải
đi đôi với nội dung, bao chứa một nội dung nhất định và phù hợp với nội dung mà
nó bao chứa.
- Cách hiểu thứ ba (đoạn văn xét thao cả hai tiêu chí
về ý và về lời): Đoạn văn vừa là kết quả của sự phân đoạn văn bản về nội dung (
dựa trên cơ sở logic ngữ nghĩa) vừa là kết quả của sự phân đoạn về hình thức (
dựa trên dấu hiệu hình thức thể hiện văn bản).
Về mặt nội
dung, đoạn văn là một ý hoàn chỉnh ở một mức độ nhất định nào đó về logic ngữ
nghĩa, có thể nắm bắt được một cách tương đối dễ dàng. Mỗi đoạn văn trong văn bản
diễn đạt một ý, các ý có mối liên quan chặt chẽ với nhau trên cơ sở chung là chủ
đề của văn bản. Mỗi đoạn trong văn bản có một vai trò chức năng riêng và được sắp
xếp theo một trật tự nhất định: đoạn mở đầu văn bản, các đoạn thân bài của văn
bản ( các đoạn này triển khai chủ đề của văn bản thành các khía cạch khác
nhau), đoạn kết thúc văn bản. Mỗi đoạn văn bản khi tách ra vẫn có tính độc lập
tương đối của nó: nội dung của đoạn tương đối hoàn chỉnh, hình thức của đoạn có
một kết cấu nhất định.
Về mặt
hình thức, đoạn văn luôn luôn hoàn chỉnh. Sự hoàn chỉnh đó thể hiện ở những điểm
sau: mỗi đoạn văn bao gồm một số câu văn nằm giữa hai dấu chấm xuống dòng, có
liên kết với nhau về mặt hình thức, thể hiện bằng các phép liên kết; mỗi đoạn văn
khi mở đầu, chữ cái đầu đoạn bao giờ cũng được viết hoa và viết lùi vào so với
các dòng chữ khác trong đoạn.
Đây là
cách hiểu hợp lí, thoả đáng hơn cả giúp người đọc nhận diện đoạn văn trong văn
bản một cách nhanh chóng, thuận lợi đồng thời giúp người viết tạo lập văn bản bằng
cách xây dựng từng đoạn văn được rõ ràng, rành mạch.
Ví dụ
về đoạn văn:
“ Vì ông lão yêu làng tha thiết nên vô cùng
căm uất khi nghe tin dân làng theo giặc(1). Hai tình cảm tưởng chừng mâu thuẫn
ấy đã dẫn đến một sự xung đột nội tâm dữ dội( 2). Ông Hai dứt khoát lựa chọn
theo cách của ông: Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù(
3). Đây là một nét mới trong tình cảm của người nông dân thời kì đánh Pháp(4).
Tình cảm yêu nước rộng lớn hơn đã bao trùm lên tình cảm đối với làng quê(5). Dù
đã xác định như thế, nhưng ông Hai vẫn không thể dứt bỏ tình yêu đối với quê
hương; vì thế mà ông xót xa cay đắng”(6).
Về
nội dung:
- Chủ đề của đoạn
văn trên là: tâm trạng mâu thuẫn của ông Hai khi nghe tin làng mình theo giặc.
Chủ đề này tập trung khái quát ở câu1,2.
- Đoạn văn trên
có ba phần:
+ Câu 1,2 là phần mở
đoạn. Phần này chứa đựng ý khái quát của cả đoạn văn, gọi là câu chủ đề. Câu
chủ đề có thể là một hoặc hai câu văn.
+ Câu 3,4,5 là phần thân
đoạn. Phần này triển khai đoạn văn, mỗi câu văn đề cập tới một biểu hiện cụ thể
của chủ đề, liên quan tới chủ đề của đoạn văn.
+ Câu 6 là phần kết đoạn. Phần này khắc sâu chủ đề
của đoạn văn.
- Đây là đoạn văn có kết cấu đầy đủ cả ba phần: mở đoạn,
thân đoạn và kết đoạn. Khi viết đoạn văn, không phải bao giờ cũng nhất thiết có
đủ ba phần như vậy. Ví dụ: Đoạn quy nạp, câu mở đầu đoạn không chứa đựng ý khái
quát mà là câu cuối cùng; đoạn diễn dịch, câu cuối cùng kết thúc đoạn không
chưa đựng ý khái quát, chủ đề đã được nêu rõ ở câu mở đoạn.
Về hình thức:
-
Đoạn văn trên được
tạo thành bằng 6 câu văn được liên kết với nhau bằng các phép liên kết hình thức:
phép thế, phép lặp.
-
Đoạn văn trên được
viết giữa hai dấu chấm xuống dòng, chữ cái đầu đoạn được viết lùi vào một chữ và
viết hoa.
II. Kết cấu
đoạn văn.
Trong văn
bản, nhất là văn nghị luận, ta thường gặp những đoạn văn có kết cấu phổ biến:
quy nạp, diễn dịch, tổng phân hợp; bên cạnh đó là đoạn văn có kết cấu so sánh,
nhân quả, vấn đáp, đòn bẩy, nêu giả thiết, hỗn hợp,…
1. Đoạn diễn dịch.
Đoạn diễn dịch là một đoạn văn trong đó câu chủ đề
mang ý nghĩa khái quát đứng ở đầu đoạn,
các câu còn lại triển khai ý tưởng chủ đề, mang ý nghĩa minh hoạ, cụ thể. Các câu
triển khai được thực hiện bằng các thao tác giải thích, chứng minh, phân tích,
bình luận; có thể kèm những nhận xét, đánh giá và bộc lộ sự cảm nhận của người
viết.
Ví dụ: Đoạn
văn diễn dịch, nội dung nói về cá tính sáng tạo trong sáng tác thơ:
“ Sáng tác
thơ là một công việc rất đặc biệt, rất khó khăn, đòi hỏi người nghệ sĩ phải
hình thành một cá tính sáng tạo(1).Tuy vậy, theo Xuân Diệu - tuyệt nhiên không
nên thổi phồng cái cá biệt, cái độc đáo ấy lên một cách quá đáng(2). Điêù ấy
không hợp với thơ và không phải phẩm chất của người làm thơ chân chính(3). Hãy
sáng tác thơ một cách tự nhiên, bình dị, phải đấu tranh để cải thiện cái việc
tự sáng tạo ấy không trở thành anh hùng chủ nghĩa(4) .Trong khi sáng tác nhà
thơ không thể cứ chăm chăm: mình phải ghi dấu ấn của mình vào trong bài thơ
này, tập thơ nọ(5). Chính trong quá trình lao động dồn toàn tâm toàn ý bằng sự
xúc cảm tràn đầy, có thể nhà thơ sẽ tạo ra được bản sắc riêng biệt một cách tự
nhiên, nhà thơ sẽ biểu hiện được cái cá biệt của mình trong những giây phút cầm
bút”(6)..
Mô hình đoạn văn: Câu 1 là câu mở đoạn, mang ý chính của đoạn gọi là câu chủ đề. Bốn câu
còn lại là những câu triển khai làm rõ ý của câu chủ đề. Đây là đoạn văn giải
thích có kết cấu diễn dịch.
2.
Đoạn
quy nạp. Đoạn văn quy nạp là đoạn văn được trình bày đi từ các ý chi tiết,
cụ thể nhằm hướng tới ý khái quát nằm ở cuối đoạn. Các câu trên được trình bày
bằng thao tác minh hoạ, lập luận, cảm nhận và rút ra nhận xét, đánh giá chung.
Ví dụ: Đoạn
văn quy nạp, nội dung nói về đoạn kết bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu.
“ Chính Hữu
khép lại bài thơ bằng một hình tượng thơ:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng
trăng treo(1).
Đêm khuya chờ giặc tới, trăng đã xế ngang tầm
súng(2). Bất chợt chiến sĩ ta có một phát hiện thú vị: Đầu súng trăng treo(3).
Câu thơ như một tiếng reo vui hồn nhiên mà chứa đựng đầy ý nghĩa(4). Trong sự
tương phản giữa súng và trăng, người đọc vẫn tìm ra được sự gắn bó gần gũi(5).
Súng tượng trưng cho tinh thần quyết chiến quyết thắng kẻ thù xâm lược(6).
Trăng tượng trưng cho cuộc sống thanh bình, yên vui(7). Khẩu súng và vầng trăng
là hình tượng sóng đôi trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam bất khuất
và hào hoa muôn thuở(8). Chất hiện thực nghiệt ngã và lãng mạng bay bổng đã hoà
quyện lẫn nhau tạo nên hình tượng thơ để
đời(9).
Mô hình đoạn văn: Tám câu đầu triển khai phân tích hình tượng thơ trong
đoạn cuối bài thơ “Đồng chí”, từ đó khái quát vấn đề trong câu cuối – câu chủ đề,
thể hiện ý chính của đoạn: đánh giá về hình tượng thơ. Đây là đoạn văn phân tích
có kết cấu quy nạp.
3. Đoạn tổng phân hợp.
Đoạn văn tổng phân hợp là đoạn văn phối hợp diễn dịch
với quy nạp. Câu mở đoạn nêu ý khái quát bậc một, các câu tiếp theo khai triển ý
khái quát, câu kết đoạn là ý khái quát bậc hai mang tính chất nâng cao, mở rộng.
Những câu khai triển được thực hiện bằng thao tác giải thích, chứng minh, phân
tích, bình luận, nhận xét hoặc nêu cảm tưởng, để từ đó đề xuất nhận định đối với
chủ đề, tổng hợp lại, khẳng định thêm giá trị của vấn đề.
Ví dụ: Đoạn
văn tổng phân hợp, nội dung nói về đạo lí uống nước nhớ nguồn:
“ Lòng biết ơn
là cơ sở của đạo làm người(1). Hiện nay trên khắp đất nước ta đang dấy lên
phong trào đền ơn đáp nghĩa đối với thương binh, liệt sĩ, những bà mẹ anh hùng,
những gia đình có công với cách mạng(2). Đảng và Nhà nước cùng toàn dân thực sự
quan tâm, chăm sóc các đối tượng chính sách(3). Thương binh được học nghề, được
trợ vốn làm ăn; các gia đình liệt sĩ, các bà mẹ Việt Nam anh hùng được tặng nhà
tình nghĩa, được các cơ quan đoàn thể phụng dưỡng, săn sóc tận tình(4). Rồi
những cuộc hành quân về chiến trường xưa tìm hài cốt đồng đội, những nghĩa
trang liệt sĩ đẹp đẽ với đài Tổ quốc ghi công sừng sững, uy nghiêm, luôn nhắc
nhở mọi người, mọi thế hệ hãy nhớ ơn các liệt sĩ đã hi sinh anh dũng vì độc
lập, tự do…(5)Không thể nào kể hết những biểu hiện sinh động, phong phú của đạo
lí uống nước nhớ nguồn của dân tộc
ta(6). Đạo lí này là nền tảng vững vàng để xây dựng một xã hội thực sự tốt đẹp(7).
Mô hình đoạn văn: Đoạn văn gốm bảy câu:
-
Câu đầu (tổng): Nêu
lên nhận định khái quát về đạo làm người, đó là lòng biết ơn.
-
Năm câu tiếp ( phân):
Phân tích để chứng minh biểu hiện của đạo lí uống nước nhớ nguồn.
-
Câu cuối (hợp):
Khẳng định vai trò của đạo lí uống nước nhớ nguồn đối với việc xây dựng xã hội.
Đây là đoạn văn chứng minh có kết cấu tổng phân hợp.
4. Đoạn so sánh
4.1. So sánh tương đồng.
Đoạn so sánh tương đồng là đoạn văn có sự so sánh tương
tự nhau dựa trên một ý tưởng: so sánh với một tác giả, một đoạn thơ, một đoạn văn,…
có nội dung tương tự nội dung đang nói đến.
Ví dụ 1:
Đoạn văn so sánh tương đồng, nội dung nói về câu thơ kết trong bài “ Nghe tiếng giã gạo” của Hồ Chí Minh:
Ngày trước tổ tiên ta có câu: “ Có công mài
sắt có ngày nên kim”(1). Cụ Nguyễn Bá Học , một nho sĩ đầu thế kỉ XX cũng viết:
“Đường đi không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông”(2).
Sau này, vào đầu những năm 40, giữa bóng tối ngục tù của Tưởng Giới Thạch, nhà
thơ Hồ Chí Minh cũng đã đề cập tới tính kiên nhẫn, chấp nhận gian lao qua bài
thơ “ Nghe tiếng giã gạo”, trong đó có câu: “ Gian nan rèn luyện mới thành
công”(3). Câu thơ thể hiện phẩm chất tốt đẹp, ý chí của Hồ Chí Minh đồng thời
còn là châm ngôn rèn luyện cho mỗi chúng ta(4).
Mô hình đoạn văn: Câu nói của tổ tiên, câu nói của Nguyễn Bá Học (câu 1,2) có nội dung
tương đương với nội dung câu thơ của Hồ Chí Minh (4). Đây là đoạn văn mở bài của
đề bài giải thích câu thơ trích trong bài “ Nghe
tiếng giã gạo” của Hồ Chí Minh có kết cấu so sánh tương đồng.
Ví dụ 2:
Đoạn văn so sánh tương đồng, nội dung nói về hình ảnh “vầng trăng” trong bài “Ánh
trăng” của Nguyễn Duy:
“ Tuổi thơ
Nguyễn Duy gắn bó với trăng và cả khi trở thành người lính thì trăng vẫn là
người bạn tri kỉ:
“hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thảnh tri kỉ”.(1)
Bằng nghệ
thuật nhân hoá, Nguyễn Duy đã khắc hoạ vẻ đẹp tình nghĩa, thuỷ chung của hai
người bạn: trăng và người lính, người lính và trăng(2). Cuộc sống trong rừng
thời chiến tranh biết bao gian khổ, khó khăn nhưng trăng vẫn đến với người lính
bằng một tình cảm chân thành, nồng hậu, không chút ngần ngại(3). Trăng đến toả
ánh sáng dịu mát cho giấc ngủ người chiến sĩ “ Gối khuya ngon giấc bên song
trăng nhòm” ( Hồ Chí Minh) (4). Trăng đến bên người chiến sĩ cùng chờ giặc tới
trong những đên khuya sương muối: “Đầu súng trăng treo” ( Chính Hữu)(5). Ánh
trăng cùng với người lính qua biết bao năm tháng gian khổ của đất nước để vượt
lên mọi sự tàn phá của quân thù:
“Và vầng trăng, vầng trăng đất nước
Vượt qua
quầng lửa, mọc lên cao”. ( Phạm Tiến Duật) (6).
Trăng với
người lính trong thơ thật gần gũi và gắn bó (7). Đặc biệt, trong thơ Nguyễn Duy
ánh trăng đã trở thành một biểu tượng cao đẹp: “ vầng trăng tri kỉ”, “vầng
trăng tình nghĩa” (9).
Ví dụ 3:
Đoạn văn so sánh tương đồng, nội dung nói về lòng yêu làng, yêu nước của ông
Hai trong tác phẩm “ Làng” của Kim Lân:
Trong con
người ông Hai, tình cảm dành cho làng gắn liền với lòng yêu nước. Tình yêu quê
hương là cội nguồn của lòng yêu nước. Đúng như I – li – a Ê – ren – bua, một
nhà văn Liên Xô cũ đã viết: “ Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm
thường nhất…Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên tình yêu Tổ quốc”.
Với ông Hai, chân lí ấy càng đúng hơn bao giờ hết. Từ chỗ yêu con đường làng,
yêu những mái nhà ngói,…tình cảm của ông Hai đã tiến dần lên lòng yêu nước mà
lòng yêu nước sâu nặng thầm kín ấy lại bừng sáng rực rỡ, lung linh trong tâm
hồn ông. Tình yêu làng được nâng cao, được vút lên thành đỉnh cao của vẻ đẹp
trong nhân vật ông Hai mà Kim Lân tập trung khắc hoạ, tô đậm rõ nét. Vì yêu
nước nên ông Hai căm thù bọn người phản bội đất nước. Khi nghe tin làng chợ Dầu
theo Tây ông đã rít lên: “ Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi
làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này!”. Tiếng rít ấy thể hiện
sự căm giận đang bốc lên ngùn ngụt, thể hiện sự dồn nén kìm hãm đã ghê gớm lắm
rồi trong lòng ông. Lời nói ấy ẩn chứa biết bao nhiêu oán trách, khinh bỉ, khổ
đau. Cũng vì yêu nước mà chiều nào ông cũng tìm đến phòng thông tin nghe tin
tức về cuộc kháng chiến. Ông hả lòng, hả dạ, sung sướng, tự hào trước những
chiến tích anh hùng của mọi người dân trong cả nước. Điều đó thể hiện chân thực
tấm lòng ông Hai dành cho đất nước.
4.2. So sánh tương phản.
Đoạn so sánh tương phản là đoạn văn có sự so sánh trái
ngược nhau về nội dung ý tưởng: những hình ảnh thơ văn, phong cách tác giả, hiện
thực cuộc sống,…tương phản nhau.
Ví dụ 1:
Đoạn văn so sánh tương phản, nội dung nói về việc học hành
:
Trong cuộc sống, không thiếu những người cho
rằng cần học tập để trở thành kẻ có tài, có tri thức giỏi hơn người trước mà
không hề nghĩ tới việc rèn luyện đạo đức, lễ nghĩa vốn là giá trị cao quý nhất
trong các giá trị của con người( 1). Những người ý luôn hợm mình, không chút
khiêm tốn, đôi khi trở thành người vô lễ, có hại cho xã hội(2). Đối với những
người ấy, chúng ta cần giúp họ hiểu rõ lời dạy của cổ nhân: “ Tiên học lễ, hậu
học văn”( 3).
Mô hình đoạn văn: Ý tưởng của đoạn văn là nói về quan niệm của việc học: học để làm người.
Câu 1,2 nêu nội dung trái ngược với ý tưởng; câu 3 nêu ý tưởng. Nội dung tương
phản với ý tưởng bao giờ cũng được đề cập trước, sau đó dẫn đến nội dung chính
của ý tưởng. Đây là đoạn văn mở bài, giải thích câu nói của Khổng Tử “ Tiên học
lễ, hậu học văn”.
Ví dụ
2: Đoạn văn so sánh tương phản, nội dung nói về phẩm chất của con người
mới trong “ Lặng lẽ Sa Pa ” của
Nguyễn Thành Long:
Thực lòng mà nói, giữa bao lo toan hối hả của
cuộc sống thường ngày, có khi nào ta dành ra được những phút tĩnh lặng của cuộc
đời, để lắng nghe nhịp đập bên trong thầm lặng của cuộc sống. Đọc “ Lặng lẽ Sa
Pa”, ta giật mình bởi những điều Nguyễn Thành Long nói tới mà ta quen nghĩ,
quen nhìn hời hợt, nông cạn theo một công thức đã có sẵn mà không chịu đi sâu
tìm tòi, phát hiện bản chất bên trong của nó: “ Trong cái lặng im của Sa Pa,
dưới những dinh thự cũ kĩ của Sa Pa, Sa Pa mà chỉ nghe tên, người ta đã nghĩ
đến chuyện nghỉ ngơi, có những con người làm việc và suy nghĩ” hết mình cho
đất nước, cho cuộc sống hôm nay.
5. Đoạn nhân quả.
5.1.
Trình bày
nguyên nhân trước, chỉ ra kết quả sau.
Đoạn văn có kết cấu hai phần, phần trước trình bày
nguyên nhân, phần sau trình bày kết quả của sự việc, hiện tượng, vấn đề,…
Ví dụ 1 :
Đoạn văn nhân quả, nội dung nói về chi tiết Vũ Nương sống lại dưới thuỷ cung
trong “ Chuyện người con gái Nam Xương”
của Nguyễn Dữ:
“ Câu chuyện lẽ
ra chấm hết ở đó nhưng dân chúng không chịu nhận cái tình thế đau đớn ấy và cố đem một nét huyền ảo để an ủi ta(1). Vì thế
mới có đoạn hai, kể chuyện nàng Trương xuống thuỷ cung và sau lại còn gặp mặt
chồng một lần nữa(2).”
Ví dụ
2: Đoạn văn nhân quả, nội dung nói tới lời khuyên về lòng biết ơn của
con cái với cha mẹ trong một bài ca dao:
Núi Thái Sơn là núi cao nhất, đồ sộ nhất, vững
chãi nhất ở Trung Quốc, cũng như tình cha mạnh mẽ, vững chắc(1). Chính người đã
dạy dỗ hướng cho ta về lẽ phải và truyền thêm cho ta sức mạnh để bay vào cuộc
sống(2). Và thông qua hình tượng nước trong nguồn, dòng nước tinh khiết nhất,
mát lành nhất, dạt dào mãi chẳng bao giờ cạn, ta cảm nhận ró được tình yêu của
mẹ mới thật ngọt ngào, vô tận và trong lành biết bao nhiêu(3). Từ những hình
ảnh cụ thể ấy mà ta có thể thấy được ý nghĩa trừu tượng về công cha nghĩa mẹ(4).
Công ơn đó, ân nghĩa đó to lớn sâu nặng xiết bao; chính vì vậy mà chỉ có những
hình tượng to lớn bất diệt của thiên nhiên kì vĩ mới sánh bằng(5).Vì thế mà
người xưa mới khuyên nhủ chúng ta phải làm tròn chữ hiếu, để bù đắp phần nào
nỗi cực nhọc, cay đắng của cha mẹ đã phải trải qua vì ta”(6).
Mô hình đoạn văn: Ý tưởng của đoạn văn là giải thích ý nghĩa câu ca dao. Sáu câu trên
giải thích nghĩa đen, nghĩa bóng của hình ảnh trong câu ca dao, nêu nguyên nhân.
Câu 6 là kết luận về lời khuyên, nêu kết quả
5.2.
Chỉ ra kết
quả trước, trình bày nguyên nhân sau.
Đoạn văn có kết cấu hai phần. Phần đầu nêu kết quả, phần
sau nêu nguyên nhân.
Ví dụ: Đoạn
văn nhân quả, nội dung nói về lòng hiếu nghĩa của Kiều trong lúc lưu lạc:
Chính trong hoàn cảnh lưu lạc quê người của
nàng ta mới thấy hết được tấm lòng chí hiếu của người con gái ấy(1). Nàng biết
sẽ còn bao cơn “ cát dập sóng vùi” nhưng nàng vẫn chỉ lo canh cánh lo cho
cha mẹ thiếu người đỡ đần phụng dưỡng vì hai em còn “ sân hoè đôi chút thơ
ngây”(2). Bốn câu mà dùng tới bốn điển tích “người tựa cửa”, “ quạt nồng ấp
lạnh”, “sân lai”, “ gốc tử(3)”. Nguyễn Du đã làm cho nỗi nhớ của Kiều đậm phần
trang trọng, thiết tha và có chiều sâu nhưng cũng không kém phần chân thực(4).
Mô hình đoạn văn: Ý tưởng của đoạn bình về lòng hiếu của Kiều. Câu 1 nêu
kết quả, ba câu còn lại nêu nguyên nhân
6. Đoạn vấn đáp.
Đoạn văn vấn đáp là đoạn văn có kết cấu hai phần, phần
đầu nêu câu hỏi, phần sau trả lời câu hỏi. Nội dung hỏi đáp chính là chủ đề của
đoạn văn. Trong kiểu kết cấu này, phần sau có thể để người đọc tự trả lời.
Ví
dụ: Đoạn văn vấn đáp, nội dung nói về cái hồn dân tộc trong bài “Ông đồ” của Vũ Đình Liên:
Cứ đọc kĩ mà xem, sẽ thấy cái xót xa thấm đậm
quay cuồng trong câu hỏi cuối: “ Những người muôn năm cũ”, những người ấy là
những tâm hồn đẹp thanh cao bên câu đối đỏ của ông đồ, hay những ông đồ trên
phố phường Hà Nội xưa(1)? Tôi nghĩ là cả hai(2). Thắc mắc của tác giả rất có
lí, và chính vì có lí nên nó thật tàn nhẫn và đau lòng(3). Những cái đẹp cao
quý sâu kín, cái đẹp của hồn người Hà Nội, cái đẹp của hồn Việt Nam cứ ngày
càng mai một, càng bị cuộc sống với những quy tắc rất thực tế lấn át, chà đạp
và xô đẩy sang lề đường để rồi biến mất như ông đồ già kia, và có lẽ sẽ mãi mãi
không còn nếu như không có những Vũ Đình Liên đáng khâm phục(4). “Hồn ở đâu bây
giờ”(5)? Câu hỏi ấy là tiếng chuông cảnh tỉnh người đọc ở mọi thế hệ mọi thời
đại, thức dậy những gì sâu xa đã bị lãng quên, chon vùi dưới cuộc sống ồn ào
náo nhiệt(6). Làm sao để tìm lại cái hồn thanh cao cho mỗi con người Việt Nam,
để khôi phục lại cái hồn cho cả dân tộc, đó là điều nhà thơ Vũ Đình Liên muốn
nhắn gửi chúng ta(7).
Mô hình đoạn văn: Ý tưởng của đoạn văn là giải thích và bình về hai câu thơ. Phần nêu câu
hỏi là câu 1, phần trả lời là câu 2,3,4.
7. Đoạn đòn bẩy.
Đoạn văn có kết cấu đòn bẩy là đoạn văn mở đầu nêu một
nhận định, dẫn một câu chuyện hoặc những đoạn thơ văn có nội dung gần giống hoặc
trái với ý tưởng ( chủ đề của đoạn) tạo thành điểm tựa, làm cơ sở để phân tích
sâu sắc ý tưởng đề ra.
Ví
dụ: Đoạn văn đòn bẩy, nội dung nói về hai câu thơ tả cảnh xuân trong “
Truyện Kiều” của Nguyễn Du:
Trong “ Truyện Kiều” có hai câu thơ tả cảnh
mùa xuân rất đẹp:
“ Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lên trắng điểm một vài
bong hoa”(1).
Thơ cổ Trung Hoa cũng có hai câu thơ
tả cảnh đầy ấn tượng:
“ Phương thảo liên thiên bích
Lê chi sổ điểm hoa(2).
…Tác giả
Trung Quốc chỉ nói : “ Lê chi sổ điểm hoa” ( trên cành lê có mấy bông hoa(3)).
Số hoa lê ít ỏi như bị chìm đi trong sắc cỏ ngút ngàn(4). những bông lê yếu ớt
bên lề đường như không thể đối chọi với cả một không gian trời đất bao la rộng
lớn(5). Nhưng những bông hoa trong thơ Nguyễn Du là hoàn toàn khác: “ Cành lê
trắng điểm một vài bông hoa”(6). Nếu như bức tranh xuân ấy lấy phông nền là màu
xanh của của cỏ thì những bông hoa lê là một nét chấm phá vô cùng sinh động và
tài tình(7). Sắc trắng của bông hoa lê – cái sắc trắng chưa từng xuất hiện
trong câu thơ cổ Trung Hoa- nổi bật trên nền xanh tạo ra thanh khiết trong sáng
vô cùng(8). Tuy chỉ là một vài chấm nhỏ trên bức tranh nhưng lại là điểm nhấn
toả sáng và nổi bật trên bức tranh toàn cảnh(9). Những bông hoa “trắng điểm”
thể hiện sự tài tình gợi tả gợi cảm trong lời thơ(10). Cành hoa lê như một cô
thiếu nữ đang e ấp dịu dàng(11). Câu thơ cũng thể hiện bản lĩnh hội hoạ của
Nguyễn Du(12). Hai sắc màu xanh và trắng hoà quyện với nhau trong bức tranh
xuân vừa đẹp vừa dào dạt sức sống đầy xuân sắc, xuân hương và xuân tình(13).
Mô hình đoạn văn: Ý tưởng của đoạn văn là bình giảng câu thơ với hình ảnh thơ đặc sắc.
Câu 3,4,5 phân tích câu thơ cổ Trung Quốc làm điểm tựa để năm câu còn lại (câu
6,7,8,9,10) làm rõ được chủ đề đoạn.
8. Nêu giả thiết.
Đoạn văn nêu giả thiết là đoạn văn có kết cấu: mở đoạn
nêu giả thiết, để từ đó đề cập tới chủ đề đoạn.
Ví
dụ: Đoạn văn nêu giả thiết, nội dung nói về chi tiết “ cái bóng” trong “ Chuyện người con gái Nam Xương”:
Giáo sư Phan Trọng Luận không sai khi nói: “
Cái bóng đã quyết định số phận con người”, đây phải chăng là nét vô lí, li kì
vẫn có trong các truyện cổ tích truyền kì(1)? Không chỉ dừng lại ở đó, “ cái bóng
còn là tượng trưng cho oan trái khổ đau, cho bất hạnh của biết bao người phụ nữ
sống dưới xã hội đương thời(2). Nỗi oan của họ rồi cũng chỉ là những cái bóng mờ
ảo, không bao giờ được sáng tỏ(3). Hủ tục phong kiến hay nói đúng hơn là cái xã
hội phong kiến đen tối đã vùi dập, phá đi biết bao tâm hồn, bao nhân cách đẹp,
đẩy họ đến đường cùng không lối thoát(4). Để rồi chính những người phụ nữ ấy
trở thành “ cái bóng” của chính mình , của gia đình, của xã hội(5). Chi tiết “
cái bóng” được tác giả dùng để phản ánh số phận, cuộc đời người phụ nữ đầy bất công ngang trái nhưng cũng như bao
nhà văn khác ông vẫn dành một khoảng trống cho tiếng lòng của chính nhân vật được
cất lên, được soi sáng bởi tâm hồn người đọc(5). “ Cái bóng” được đề cao như
một hình tượng đẹp của văn học, là viên ngọc soi sáng nhân cách con người(6).
Bạn đọc căm phẫn cái xã hội phong kiến bao nhiêu thì lại càng mở lòng yêu
thương đồng cảm với Vũ Nương bấy nhiêu(7). “ Cái bóng” là sản phẩm tuyệt vời từ
tài năng sáng tạo của Nguyễn Dữ góp phần nâng câu chuyện lên một tầm cao mới:
chân thực hơn và yêu thương hơn(8).
Mô hình đoạn văn: Đoạn văn có câu thứ nhất nêu
giả thiết về chi tiết “cái bóng”. Các câu tiếp theo khẳnh định giá trị của chi
tiết đó.
9. Đoạn móc xích.
Đoạn văn có mô hình kết câu móc xích là đoạn văn mà ý
các câu gối đầu lên nhau, đan xen nhau và được thể hiện cụ thể bằng việc lặp lại
một vài từ ngữ ở câu trước trong câu sau.
Ví dụ: Đoạn
văn móc xích, nội dung nói về vấn đề
trồng cây xanh để bảo về môi trường sống:
Muốn làm nhà thì phải
có gỗ. Muốn có gỗ thì phải trồng cây gây rừng. Trồng cây gây
rừng thì phải coi trọng chăm sóc, bảo vệ để có nhiều cây xanh bóng mát. Nhiều cây
xanh bóng mát thì cảnh quan thiên nhiên đẹp, đất nước có hoa thơm trái ngọt
bốn mùa, có nhiều lâm thổ sản để xuất khẩu. Nước sẽ mạnh, dân sẽ giàu, môi trường
sống được bảo vệ.
Mô hình đoạn văn: Các ý gối nhau để thể hiện chủ đề về môi trường sống. Các từ ngữ được lặp lại: gỗ,
trồng cây gây rừng, cây xanh bóng mát.
(còn nữa)