Đoạn văn và bài tập về đoạn văn
Dành cho ôn thi vào 10 - môn Ngữ văn
Đoạn văn
A. Khái niệm
Hiện nay có nhiều cách hiểu về đoạn văn
khác nhau, nhưng có thể qui về một số cách hiểu chính như sau:
- Đoạn văn được dùng để
chỉ sự “phân đoạn nội dung” của văn bản. Biểu hiện cụ thể của quan niệm này thường
gặp ở những câu hỏi, kiểu như: “Bài này được chia làm mấy đoạn? Mỗi đoạn nói
gì?...”. Như vậy, đoạn có thể rất dài, bao gồm nhiều phần xuống dòng, nhưng cũng
có thể chỉ là một phần xuống dòng. Đoạn trong những trường hợp này được quan niệm
như một đơn vị có sự hoàn chỉnh nhất định về mặt nội dung.
- Đoạn văn được hiểu là
sự “phân đoạn mang tính chất hình thức”. Cách hiểu này thường gặp trong các
cách nói như: “Mỗi chỗ xuống dòng sẽ cho ta một đoạn văn. Muốn có đoạn văn ta
phải chấm xuống dòng…”. Tuy nhiên, nếu chỉ nhấn mạnh vào hình thức của đoạn văn
thì sẽ phiến diện và rất khó cho việc giải quyết vấn đề “đoạn văn” trong môn tập
làm văn ở nhà trường.
Tuy có sự khác biệt
trong việc xác định khái niệm đoạn văn, nhưng về cơ bản các nhà ngôn ngữ học đã
thống nhất khi cho rằng đoạn văn là một thủ pháp tổ chức văn bản nhằm giúp người
đọc tiếp nhận nội dung thông tin của văn bản một cách thuận lợi nhất. Đoạn văn
là đơn vị cơ sở của văn bản, liền kề với câu nhưng trực tiếp đứng trên câu, diễn
đạt một nội dung nhất định, được mở đầu bằng chỗ lùi đầu dòng, viết hoa và kết
thúc bằng dấu ngắt đoạn (thực chất là dấu ngắt câu của câu cuối cùng trong đoạn
văn).
Tóm lại:
a. Về mặt nội dung, đoạn văn có thể hoàn
chỉnh hoặc không hoàn chỉnh. Tính hoàn chỉnh hay không hoàn chỉnh không quyết định
bản chất của việc tổ chức đoạn văn. Khi đoạn văn đạt mức hoàn chỉnh về nội
dung, nó sẽ trùng với chỉnh thể trên câu (một khái niệm khá phức tạp, không có điều
kiện trình bày ở bài này). Đoạn văn trùng với chỉnh thể trên câu có thể được gọi
là “đoạn ý” (hay “đoạn nội dung”). Những đoạn văn không hoàn chỉnh về nội dung
có thể được gọi là “đoạn lời” (hay “đoạn diễn đạt”).
b. Về mặt hình thức, đoạn văn luôn luôn
hoàn chỉnh. Tính hoàn chỉnh này được thể hiện ra bằng những dấu hiệu tự nhiên của
đoạn như: lùi đầu dòng, viết hoa chữ cái đầu dòng, có dấu kết đoạn. Đây là những
dấu hiệu giúp ta có thể dễ dàng nhận ra ranh giới giữa các đoạn văn trong văn bản.
Với quan niệm như trên,
chúng ta có thể gặp những đoạn văn sau:
(1) Người xưa từng nói: “Thất bại là
mẹ thành công”. Có lẽ trong trường kì lịch sử dựng nước và giữ nước lâu
dài, gian khổ của dân tộc ta, cha ông ta đã từng hơn một lần phải trải qua những
thất bại cay đắng; những thất bại ấy đã trở thành những bài học kinh nghiệm bằng
máu mà nhờ nó dân tộc ta tiếp tục tiến lên và chiến thắng. Không có thành công
nào không phải trả giá bằng mồ hôi, công sức và máu; điều ấy là lẽ đương nhiên;
nhưng cũng có những thành công phải trả giá bằng những sai lầm của chính mình;
vấn đề là hãy nhìn thẳng vào những sai lầm đó để dũng cảm đứng dậy tiếp tục thực
hiện đến cùng hoài bão của mình; phải chăng đó cũng là một bài học thấm thía mà
cha ông ta muốn nhắn gửi qua câu tục ngữ?!
(Đoạn văn của học sinh)
(2) Anh càng hết sức để
hát, để đàn và để… không ai nghe.
Bởi vì…
Đường càng vắng ngắt. Thỉnh
thoảng, những chiếc xe cao su kín mít như bưng, lép nhép chạy uể oải, lại thỉnh
thoảng một người đi lén dưới mái hiên, run rẩy, vội vàng.
(Nguyễn Công Hoan)
(3) Những ngù hoa lau loả
toả, rã trắng. Ban đêm, trong ánh trăng trắng lạnh tháng mười, bóng hoa lau
càng rã trắng vào nền trười trong suốt. Tưởng như cả một vùng trời ngoài thành
phía tây đi chạy loạn Tây hạ thành, từ năm Dậu đến nay đã bỏ hết làng mạc, đồng
áng cho lau sậy và cầy cáo.
Nhưng không…
Ai men theo chân thành,
theo sông Tô Lịch ra đến đầu đồng, nhiều khi đã quá nửa đêm, giữa quãng hoang vắng,
bất chợt nghe một tiếng ẽo ẹt lạ lùng cất lên giữa bụi lau. Đấy là tiếng cái gọng
vó bè đôi chốc lại chổng đuôi rít kẽo kẹt trong đêm im lặng. Thì ra vẫn ấm người,
có người.
(Tô Hoài)
* Qua ba ví dụ trên, ta
thấy ví dụ (1) có một đoạn văn (đoạn ý), ví dụ (2) và ví dụ (3) mỗi ví dụ có 3 đoạn
văn, trong đó đoạn 1 và đoạn 3 là “đoạn ý”, còn đoạn 2 là “đoạn lời”.
B. Phân loại
I. Căn cứ vào cấu trúc
1. Đoạn văn diễn dịch
Là đoạn có câu chủ đề đứng ở đầu đoạn.
Mô hình: A + B, C, D…
- A: câu chủ đề
- B, C, D…: các câu khai
triển bậc1
2. Đoạn văn qui nạp
Là
đoạn văn có câu chủ đề nằm ở cuối đoạn, câu chủ đề thường được nối với các câu
khai triển bằng các từ hoặc tổ hợp từ chuyên dùng như “vì vậy, cho nên, đó là,
thế là, tóm lại…”.
Mô hình: B, C, D… + A
- B, C, D…: các câu khai
triển bậc1
- A: câu chủ đề
3. Đoạn văn tổng phân hợp
Là đoạn văn có câu chủ đề kép, tức là một
câu chủ đề đứng ở đầu đoạn và một câu chủ đề nằm ở cuối đoạn. Tuy có hai câu chủ
đề (đồng dạng về cấu trúc, đồng nghĩa về nội dung), nhưng hai câu chủ đề này
không hoàn toàn trùng khít nhau (không phải là một).
Mô hình: A + B, C, D… + A’
- A và A’: hai câu chủ đề
- B, C, D…: các câu khai
triển bậc1
4. Đoạn văn song hành
Là đoạn văn không có câu chủ đề, trong đó
mỗi câu nói đến một đối tượng, nhưng các câu vẫn có liên kết với một ý khái
quát chung nằm trong một trường liên tưởng ngữ nghĩa nhất định.
Ví dụ:
Rừng không một tiếng lá xào xạc. Biển
không một tiếng sóng dội lên. Dãy núi phía xa mờ im lìm. Bãi cát trước mặt lặng
lẽ, quạnh hiu…
- Câu1 nói đến “rừng”,
câu2 nói đến “biển”, câu3 nói đến “núi”, câu4 nói đến “bãi cát”; tức là 4 câu
nói đến 4 đối tượng khác nhau.
- Trường ngữ nghĩa tạo
nên một ý khái quát cho cả đoạn văn này là “sự im lặng tuyệt đối”.
5. Đoạn văn móc xích
Là đoạn văn không có câu chủ đề, trong đó
ý của câu sau kế thừa và phát triển ý của câu trước để dẫn đến một ý cuối cùng
mang tính chất kết luận.
Ví dụ:
Nhiều bạn trẻ cho rằng tình yêu là sự tận
hiến. Tận hiến có nghĩa là dâng hiến vô điều kiện. Dâng hiến vô điều kiện có
nghĩa là cho không. Cho không thì kết thúc chắc chắn sẽ là con số không to tướng!
- Câu2 kế thừa và phát
triển “tận hiến”, câu3 kế thừa và phát triển “dâng hiến”, câu4 kế thừa và phát
triển “cho không” để đi đến kết luận “là con số không to tướng”.
- Nếu ngay từ đầu nói rằng
“Tận hiến chắc chắn sẽ là con số không to tướng” thì khó hiểu và cũng kém sức
thuyết phục.
II. Căn cứ vào ý nghĩa
1.
Đoạn văn có câu chủ đề
- Câu chủ đề: thường ngắn gọn (có đủ
chủ ngữ, vị ngữ), mang thông tin chính của cả đoạn văn, có thể đứng ở đầu hoặc
cuối đoạn văn.
- Câu khai triển bậc 1: các câu có
quan hệ trực tiếp với câu chủ đề, làm rõ ý (cụ thể hoá) cho câu chủ đề.
- Câu khai triển bậc 2: các câu
không có quan hệ trực tiếp với câu chủ đề, mà chỉ làm rõ ý cho câu đứng liền kề
trước nó.
…
1.1.
Đoạn diễn dịch
a.
Diễn dịch - Giải thích
*
Mẫu:
-
Dạy văn ở trường phổ thông có nhiều mục đích. Trước hết nó tạo điều kiện
cho HS tiếp xúc với một loại sản phẩm đặc biệt của con người, kết quả của một
thứ lao động đặc thù - lao động nghệ thuật. Đồng thời, dạy văn chương chính là
hình thức quan trọng giúp các em hiểu biết, nắm vững và sử dụng tiếng mẹ đẻ cho
đúng và hay. Dạy văn chương cũng là một trong những con đường của giáo dục thẩm
mĩ.
(Lê
Ngọc Hà)
-
Nguyễn Khuyến rất có ý thức về khí tiết của ông. Trong khoảng hai mươi năm
ra làm quan cho nhà Nguyễn, khi thì ở Huế, khi thì ở Nghệ An, Thanh Hoá, khi
thì ở Hà Nội, khi thì ở các tỉnh Sơn Tây, Hưng Hoá, Tuyên Quang; lúc nào ông cũng
sống một cuộc đời cần kiệm liêm chính, không làm việc gì có thể làm nhơ bẩn đến
đạo đức cao thượng của ông. Ông đã tự ví mình như cái lược quí bằng đồi mồi
dùng để chải cho sạch hết cát bụi bẩn.
(Văn
Tân)
-
Triết lí làm cốt lõi cho thế giới quan và nhân sinh quan Nguyễn Đình Chiểu,
quán triệt toàn bộ thơ văn cũng như hành động của ông là tư tưởng nhân nghĩa
truyền thống. Tư tưởng nhân nghĩa với Nguyễn Đình Chiểu là một thứ chủ nghĩa
nhân đạo chiến đấu vì dân vì nước, vì phẩm giá con người, chủ nghĩa nhân đạo thực
tiễn gần gũi với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản và xa lạ với tình thương trừu tượng
khước từ đấu tranh. Nhân nghĩa không phải chỉ biết có yêu thương mà còn phải biết
căm thù. Khi yêu thì yêu rất mực mà ghét thì cũng phải ghét cay ghét đắng,
ghét vào tận tâm. Lập trường bởi chưng hay ghét cũng là hay thương ấy
là lập trường nhân dân. Ghét áp bức bóc lột, ghét bất nhân bất nghĩa, bạo tàn
như Kiệt Trụ, U Lệ làm nhân dân lầm than, khổ cực và yêu thương những người có
tài vì dân vì nước.
(Hà Huy
Giáp)
c. Diễn dịch - Chứng minh
*
Mẫu:
-
Có nhiều người mắc bệnh sính dùng chữ Hán, những tiếng ta sẵn có không dùng
mà dùng chữ Hán cho bằng được. Thí dụ: ba tháng không nói ba
tháng mà nói tam cá nguyệt. Xem xét không nói xem xét mà nói quan
sát...
(X. Y. Z)
-
Hoà bình lập lại (1954), nhất là khoảng 1956 - 1957, Vũ Trọng Phụng được đặc
biệt chú ý và đương nhiên được đặt vào vị trí xứng đáng trong văn học. Nguyễn
Đình Thi, trên tờ Văn học Xô viết số 9 - 1955, đã gọi Vũ Trọng Phụng là nhà
tiểu thuyết trác việt của văn học Việt Nam, Nguyễn Tuân viết: đọc lại
truyện Giông tố (Báo Nhân Dân, 27. 10. 1956) đã coi Vũ Trọng Phụng đường
hoàng đi vào cõi bất diệt của văn xuôi Việt Nam . Nguyên Hồng giới thiệu Giông
tố bằng những lời sôi nổi... Nhóm Lê Quí Đôn đã dành một chương nhỏ trong
cuốn Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam (NXB Xây dựng-1957) viết về Vũ
Trọng Phụng. Tác phẩm Vũ Trọng Phụng được giảng dạy trong chương trình lớp IX
(hệ thống 9 năm), lớp X (hệ thống 10 năm) ở trường phổ thông và chương trình văn
ở trường đại học, một số được in lại và giới thiệu trân trọng.
(Nguyễn
Hoành Khung)
d. Diễn dịch - Toàn thể - Bộ phận
*
Mẫu:
-
Người sông Thao quê tôi đi đâu cũng nhớ về rừng cọ quê mình. Thân cọ vút cao. Búp cọ dài như thanh kiếm sắc. Lá cọ tròn
xoè ra nhiều phiến nhọn dài.
(Nguyễn Thái Vận)
-
Chú chuồn chuồn nước mới đẹp làm sao! Màu vàng trên lưng chú lấp lánh. Bốn
cái cánh mỏng như giấy bóng. Cái đầu tròn và hai con mắt long lanh như thuỷ
tinh. Thân chú nhỏ và thon vàng như màu vàng của nắng mùa thu.
(Nguyễn Thế Hội)
-
Mới dạo nào, những cây ngô còn lấm tấm như mạ non, thế mà nay đã thành
cây rung rung trước gió. Những lá ngô rộng, dài trổ ra mạnh mẽ, nõn nà. Núp
trong cuống lá, những bắp ngô non nhú lên và lớn dần. Mình nó có nhiều khía
vàng và những sợi râu ngô được bọc trong làn áo mỏng óng ánh.
(Nguyên
Hồng)
e. Diễn dịch - Bao hàm
*
Mẫu:
-
Sau trận mưa rào mọi vật đều sáng và tươi. Những đoá râm bụt thêm màu đỏ
chói. Bầu trời xanh bóng như vừa được gội rửa. Mấy đám mây bông trôi nhởn nhơ,
sáng rực lên trong ánh mặt trời.
(Vũ Tú Nam )
-
Phong cảnh miền Tây Bắc thật là hùng vĩ. Núi rừng trùng điệp nhấp nhô một
màu xanh thẳm. Có những ngọn núi cao chót vót, bốn mùa mây quấn quanh sườn. Có
những cao nguyên chạy dài mênh mông. Có những thung lũng hình lòng chảo lọt vào
giữa những khoảng núi đồi.
(N.
Q. N)
1.2.
Đoạn quy nạp
a. Quy nạp - Nhân quả
*
Mẫu:
-
Trong hàng nghìn năm dưới ách thống trị của phong kiến ngoại bang xâm lược, văn
nghệ bác học cổ điển của ta có những tác phẩm tiến bộ mang cốt cách dân tộc, nhưng
vẫn chịu nhiều ảnh hưởng của tư tưởng thống trị ngoại bang. Trong gần một thế kỉ
dưới ách áp bức bóc lột của thực dân Pháp, văn nghệ bác học của ta bị lai căng,
nhưng vẫn có những tác phẩm tiến bộ, tuy nhiên nền văn nghệ bác học đó cũng
không tích cực bằng văn nghệ của quần chúng. Vì vậy, muốn phát huy truyền thống
dân tộc tốt đẹp, lành mạnh, phong phú và sâu sắc thì trước hết phải chú trọng đến
văn nghệ của quần chúng.
(Hà Huy Giáp)
-
Thơ mới không nói đến đấu tranh cách mạng, đó là nhược điểm lớn. Thơ mới nói
chung buồn. Thơ mới thiếu khí phách cách mạng, nhưng Thơ mới là một phong trào
văn học phong phú, một phong trào sáng tạo dồi dào có nhiều yếu tố tích cực.
Lòng yêu quê hương đất nước, yêu sự sống, yêu con người, yêu tiếng Việt thiết
tha. Thơ mới đã trau dồi tiếng Việt, làm cho ngôn ngữ thơ Việt Nam uyển chuyển và hiện đại, biểu hiện được tất
cả các màu sắc tâm hồn của người Việt Nam ở thế kỉ này. Nếu không có
phong trào Thơ mới thì cũng không có ngôn ngữ Thơ mới vừa súc tích, sắc bén vừa
uyển chuyển, mượt mà chứa đựng nhiều năng lượng trữ tình cho những nhà thơ thuộc
thế hệ sau học tập. Vì vây có thể nói Thơ mới xứng đáng được mệnh danh là
"một thời đại trong thi ca" (Hoài Thanh), một thời đại phong phú, dồi
dào sức sáng tạo của hồn thơ dân tộc, của tiếng nói Việt Nam .
(Huy Cận)
b. Quy nạp - Khái quát
-
Trong bốn lần gẩy đàn, thì chỉ có lần đầu tiên gẩy cho Kim Trọng nghe là Kiều tự
nguyện nhất. Thuý Kiều đã trổ hết tài năng và hiểu biết của mình trong ngón đàn:
nào lưu thuỷ, hành vân, nào khúc Quảng Lăng, khúc Chiêu Quân. Đó là tiếng đàn
của mùa xuân, của buổi mai, của tuổi trẻ, của tình yêu, của những gặp gỡ diệu
kì giữa nhạc và thơ.
(Tế Hanh)
-
Làng xóm ta xưa kia lam lũ quanh năm mà vẫn quanh năm đói rách. Làng xóm ta
ngày nay bốn mùa nhộn nhịp cảnh làm ăn tập thể. Đâu đâu cũng có trường học, nhà
gửi trẻ, nhà hộ sinh, câu lạc bộ, sân và kho của hợp tác xã, nhà mới của xã
viên. Đời sống vật chất ngày càng ấm no, đời sống tinh thần ngày càng tiến bộ.
(Hồ Chí
Minh)
1.3.
Đoạn văn tổng phân hợp
Đồng tiền quả có sức mạnh ghê gớm.
Vì tiền mà bọn quan lại nhẫn tâm vu oan giá hoạ cho gia đình Vương ông. Vì tiền
mà bọn sai nha trở nên hung hãn như thú dữ. Đồng tiền có thể thay đổi cả cán
cân công lí. Vì tiền mà chính Thuý Kiều cũng mắc một sai lầm khó có thể tha thứ:
xui Từ Hải đầu hàng. Đồng tiền đúng là vị chúa tể vạn năng.
(N.H.T)
Người ta chỉ được sống có một lần.
Vì chỉ có một lần nên sống sao cho ra sống đâu có dễ. Thường thì khi trẻ người
ta hăm hở vào đời, rồi cũng thường vấp ngã. Nhiều người gượng lại được, nhưng cũng
không ít người gục ngã. Nếu không tỉnh táo tìm hiểu nguyên nhân thì những kẻ gục
ngã rất dễ trở nên thù hận cuộc đời một cách mù quáng. Đến khi khôn lên thì đã
già, hối không kịp nữa, thế là phí hoài một kiếp sống. Vì vậy, ngay từ thời trẻ
tuổi, mỗi người hãy sớm có ý thức học tập, rèn luyện để trui rèn bản lĩnh. Bản
lĩnh sẽ giúp ta đứng vững trước mọi sóng gió và cạm bẫy của cuộc đời. Người
ta chỉ được sống có một lần và không thể làm lại.
(H.T.S)
II.
Đoạn văn không có câu chủ đề
1.
Đoạn song hành
a.
Song hành liệt kê
* Một đối tượng:
-
Ban ở sau lưng. Ban ở trước mặt. Ban ở bên phải. Ban ở bên trái. Ban ở trên đầu,
ở trên đỉnh. Ban ở dưới chân, ở trong lòng thung lũng. Ban ngang tầm người nhưng
lại nép ở bên kia mép vực đá.
(Nguyễn Tuân)
* Nhiều đối tượng khác nhau:
-
Trong khoảnh khắc, sương ửng lên như một làn mây da cam. Bao nhiêu người trên
núi reo lên một tiếng, tôi không thể nghe biết ra thế nào. Tất cả quay mặt về đằng
ấy. Làn sương tan rất nhanh, mây và sương chen nhau loáng thoáng. Tiếng người
reo không ngớt. Tiếng trống phập phình, phập phình. Tiếng tụng kinh như hát.
(Tô Hoài)
b.
Song hành tương phản (hoặc sóng đôi)
-
Nếu Kiều là người yếu đuối thì Từ là kẻ hùng mạnh, Kiều là người tủi nhục thì Từ
là kẻ vinh quang. Mỗi bước chân Kiều đều gặp phải bất trắc thì Từ ngang dọc tự
do. Suốt đời Kiều chịu đựng thì Từ bất bình, Kiều quen tiếng khóc thì Từ quen
tiếng cười. Kiều đội trên đầu nào trung, nào hiếu thì Từ nào biết trên đầu
có ai. Kiều lê lết trên mặt đất với bao éo le và tai hoạ thì Từ vùng vẫy
phóng túng tự do. Kiều là hiện thân của mối mặc cảm tự ti, còn Từ thì lòng đầy
tự tôn.
(Vũ Hạnh)
2.
Đoạn móc xích
a.
Không chịu học hỏi để tiếp thu cái mới tức là bảo thủ, lạc hậu. Từ bảo thủ, lạc
hậu sẽ dẫn đến chậm tiến, thoái bộ. Từ thoái bộ đến bị đào thải chỉ còn một bước
chân.
(X.Y.Z)
b.
Nhà văn lấy chất liệu từ cuộc sống để sáng tác. Muốn có chất liệu cuộc sống thì
nhà văn phải gắn bó với đời sống của nhân dân, đồng cảm với những tâm tư tình cảm
và ước mơ của nhân dân. Sự đồng cảm ấy chính là nguồn cảm hứng lớn cho sáng tạo
nghệ thuật.
(Nhật Huy)
c.
Hàng ngàn cái khe nhỏ âm thầm luồn lách trên những đỉnh núi cao để tích nước
góp thành hàng trăm con suối. Hàng trăm con suối lớn nhỏ len lỏi qua các cánh rừng
đại ngàn để góp nước thành những dòng sông. Hàng chục dòng sông lại ngày đêm
kiên nhẫn góp nước thành biển cả.
(Lý Long)
III. Đoạn văn đồng nghĩa
có câu chủ đề + các câu khai triển bậc1
1.
Ba đoạn văn diễn dịch đồng nghĩa
a. Chí Phèo có một tính cách đa dạng,
nhiều mâu thuẫn. Chí rưng rưng, bẽn lẽn, hồi hộp, hi vọng trong khoảnh khắc
được trở về với cuộc sống lương thiện của con người. Chí quằn quại, đau đớn,
tuyệt vọng khi ngọn lửa hoàn lương vừa bùng lên đã bị dập tắt một cách phũ
phàng. Chí căm phẫn, uất ức, quyết liệt khi vung lưỡi dao giết chết kẻ thù.
b. Chí Phèo có một tính cách đa dạng,
nhiều mâu thuẫn. Khi rượu vào thì Chí chửi bới, rạch mặt ăn vạ, huênh hoang
tuyên bố: cả làng Vũ Đại cóc thằng nào bằng tao. Trước đồng tiền ma quái
mà Bá Kiến quẳng cho thì Chí lại có vẻ khờ khạo, ngốc nghếch. Khi đến với Thị Nở
thì hình như tình thương yêu đã thức tỉnh
tâm hồn khiến cho Chí trở về với bản chất hiền lành, mộc mạc của mình.
c. Chí Phèo có một tính cách đa dạng,
nhiều mâu thuẫn. Đó là tính cách của một kẻ hung dữ, ngang ngạnh mà vẫn yếu
đuối, cả tin. Đó là tính cách của một kẻ lưu manh, tha hoá mà vẫn thật thà lương
thiện. Đó cũng là tính cách của một hung thần mà trong sâu thẳm tâm hồn vẫn còn
bừng lên ánh sáng của lương tri.
2.
Ba đoạn văn quy nạp đồng nghĩa
a. Chí Phèo chết trên ngưỡng cửa trở
về cuộc sống. Chí Phèo chết vì cái xã hội thối nát và đầy định kiến đương thời đã
không cho Chí Phèo được sống. Vả lại, bản thân Chí cũng không thể tìm ra con đường
sống. Kẻ thù tuy đã bị đền tội, nhưng tre già măng mọc, thằng ấy chết còn thằng
khác vẫn là cái vòng luẩn quẩn bế tắc. Vì vậy, Chí Phèo phải chết!
b. Chí Phèo bị vu oan, bị lừa lọc và
bị xô đẩy đến cùng đường tuyệt lộ. Chí Phèo trở thành con quỉ dữ của làng Vũ Đại
và chỉ hung hãn trong những cơn say triền miên. Chỉ khi tỉnh rượu Chí mới hiểu
rằng mình là kẻ cô đơn, yếu đuối. Chính sự cô đơn và nỗi tuyệt vọng đã huỷ hoại
ước mơ hoàn lương của Chí Phèo. Vì vậy, Chí Phèo phải chết!
c. Chí Phèo khao khát yêu thương nhưng
vẫn bị Thị Nở cự tuyệt. Chí Phèo muốn làm lành với mọi người nhưng vẫn bị cả
làng Vũ Đại dửng dưng, lạnh nhạt. Chí Phèo chân thành bày tỏ khát vọng hoàn lương
nhưng bộ mặt chằng chịt những vết sẹo của Chí khiến người đời nghi ngờ và cố
tình xa lánh. Vì vậy, Chí Phèo phải chết!
Nhận xét:
Trên đây là các đoạn văn đồng nghĩa
về nội dung, đồng dạng về cấu trúc; nhưng chúng không hoàn toàn trùng khít
nhau như cùng được đúc ra từ một cái khuôn cứng nhắc. Chúng là các đoạn văn
mang tính cá thể hoá của chủ thể viết ra nó. Nói cách khác, với một câu
chủ đề cho trước, 40 người sẽ có 40 đoạn văn đồng nghĩa và đồng dạng.
IV.
Đoạn văn đồng nghĩa có câu chủ đề + câu khai triển bậc1 + câu khai triển bậc2
1.
Cặp A:
A.1: Lão Hạc có một tình thương rất đặc
biệt. Lão thương người con trai vì nghèo mà phải phẫn chí bỏ đi đồn điền cao
su. Lão thương con Vàng khôn ngoan, trung thành mà bị lão lừa. Lão là một người
cha thương con đến mức quên cả bản thân mình.
A.2: Lão Hạc có một tình thương rất đặc
biệt. Lão thương người con trai vì nghèo mà phải phẫn chí bỏ đi đồn điền cao
su. Lão biết ở nơi rừng thiêng nước độc ấy chẳng hứa hẹn điều gì tốt đẹp đối với
con trai lão. Lão thương con Vàng khôn ngoan, trung thành mà bị lão lừa. Dù con
Vàng không biết nói, nhưng lão luôn nghĩ rằng nó đang nhiếc móc lão là kẻ bội bạc.
Lão là một người cha thương con đến mức quên cả bản thân mình. Cái chết đau đớn
của lão khiến ai cũng phải xúc động, xót thương.
2.
Cặp B:
B.1: Nhật kí trong tù là một
tập nhật kí bằng thơ đặc sắc. Có bài thơ đọc lên thật giản dị, nhưng ý nghĩa lại
rất sâu xa. Có bài là nụ cười hóm hỉnh. Lại có những bài mang phong vị thơ Đường
thâm trầm sâu sắc.
B.2: Nhật kí trong tù là một
tập nhật kí bằng thơ đặc sắc. Có bài thơ đọc lên thật giản dị, nhưng ý nghĩa lại
rất sâu xa. Chẳng hạn người đọc không thể quên ý nghĩa giáo dục của bài Nghe
tiếng giã gạo. Có bài là nụ cười hóm hỉnh. Ví như bài Lính ngục đánh cắp
mất chiếc gậy. Lại có những bài mang phong vị thơ Đường thâm trầm sâu sắc. Đó
là những bài như Ngắm trăng, Cảnh chiều tối...
Nhận xét:
- Cả 4 đoạn văn đều là đoạn diễn dịch, đều có
câu chủ đề nằm ở đầu đoạn.
-
Hai đoạn văn A.1 và B.1 có cấu trúc giống nhau: câu chủ đề + các câu khai triển
bậc1 (trực tiếp bổ sung ý nghĩa cho câu chủ đề).
-
Hai đoạn văn A.2 và B.2 có cấu trúc giống nhau: câu chủ đề + các câu khai triển
bậc1 + các câu khai triển bậc 2 (trực tiếp bổ sung ý nghĩa cho câu khai triển bậc1
đứng trước nó).
-
Trong mỗi cặp, chúng ta có hai đoạn văn tương đồng về ý nghĩa (gọi là các đoạn
văn đồng nghĩa).
Đây là dạng mở rộng đoạn văn mà
bất kì học sinh nào cũng có thể sử dụng (có hoặc không có ý thức) trong khi viết
văn bản. Có thể trước đây các em còn viết một cách tự phát, nay vận dụng lí
thuyết về đoạn văn, giáo viên nên lưu ý hướng dẫn học sinh thực hiện thao tác
này. Khi mở rộng đoạn văn, cần bám sát câu chủ đề, tránh sa đà vào các câu khai
triển bậc 2 trở lên, có thể dẫn đến việc lạc hoặc xa chủ đề.
C.
Tác dụng của câu chủ đề trong đoạn văn
I.
Dựa vào câu chủ đề để triển khai đoạn văn
Với bất kì một câu chủ đề nào, ta cũng
có thể dễ dàng dựng được một đoạn văn theo qui trình sau:
1.
Tìm hiểu thông tin chính của câu chủ đề, chẳng hạn:
(1)
Mùa thu đã về thật rồi.
(2)
âm nhạc có thể giúp cho con người vui vẻ, lạc quan và yêu đời.
(3)
Tình bạn là một trong những tình cảm thiêng liêng của con người.
(4)
Lời ăn tiếng nói là một trong những biểu hiện văn hoá của con người.
(5)
Ăn mặc phù hợp sẽ tôn vinh vẻ đẹp của mỗi con người.
(6)
Sống là hoạt động sáng tạo không ngừng của con người.
(7)
Sách là bạn của trí tuệ.
(8)
Học tập là con đường ngắn nhất để hiểu biết.
(9)
Ước mơ là một trong những động lực giúp cho con người tiến bộ.
(10)
Hạnh phúc là làm cho người khác được hạnh phúc.
(11) Phê phán thái độ dửng dưng vô cảm trước cái xấu, cái ác
cũng quan trọng như ngợi ca cái tốt, cái thiện.
(12) Nạn ùn tắc giao thông ở Hà Nội thật đáng sợ.
(13) Huỷ hoại môi trường sống là hành vi tự sát.
…
2.
Lần lượt viết từng câu khai triển bậc1 theo số lượng nhất định (3,4,5… hoặc
hàng chục câu).
Ví dụ với câu chủ đề (1), ta có thể
viết các câu khai triển theo định hướng sau:
-
Câu1: các dấu hiệu của mùa thu như lá vàng, hoa cúc, nước hồ trong xanh…
-
Câu2: các đặc điểm của mùa thu về thời tiết, khí hậu, ánh nắng, gió…
-
Câu3: các đặc điểm về tâm trạng của con người như niềm vui, nối buồn, hoài niệm…
…
3.
Lắp ráp câu chủ đề với các câu khai triển bậc1 (hoặc bậc2, nếu có) để có một đoạn
văn.
4.
Kiểm tra, sửa chữa và hoàn thiện đoạn văn.
*
Đoạn văn gợi ý:
Mùa thu đã về thật rồi.
Mùa thu xứ Bắc, lá vàng nhẹ bay, mặt nước hồ trong xanh yên ả, hoa cúc vàng lặng
lẽ dưới ánh nắng óng ánh như mật ong. Tiết thu se se lạnh, khô ráo và dễ chịu.
Tuy ban ngày trời nắng nhưng ban đêm vẫn phải đắp một tấm chăn mỏng. Và thế là
có một giấc ngủ khá ngon lành. Trước đây, khi còn nhỏ, tôi yêu mùa thu vì mùa
thu có cái Tết của trẻ thơ, dành cho trẻ thơ, vì trẻ thơ... Hồi đó, chúng tôi
bày cỗ Trung thu bằng những múi bưởi màu hồng, những quả hồng ngâm với cái vỏ
xanh xanh, những miếng bánh nướng, bánh dẻo thơm nức... Chúng tôi háo hức bày cỗ
trông trăng đến nỗi quên cả thời gian và cảm thấy hình như đêm càng khuya thì vầng
trăng càng sáng hơn, đẹp hơn... Ngày ấy, đồ chơi Trung thu của chúng tôi vô
cùng giản dị chứ không phải những thứ đồ chơi điện tử đắt tiền như bây giờ. Một
ông phỗng và một cái mặt nạ bằng giấy bồi, một cái đèn ông sao hoặc đèn ông sư
làm bằng nan tre và giấy bóng kính đỏ, một cái đèn lồng làm bằng ống bơ... Chỉ
có vậy thôi mà bọn trẻ con chúng tôi có thể reo hò suốt cả chiều lẫn tối, không
biết chán, không biết mệt... Tôi không nhớ xuể đã có bao nhiêu mùa thu trong kí
ức của tôi, chỉ biết rằng mùa thu nào cũng đẹp, cũng đáng nhớ. Giờ đây, mùa thu
lại về, nhưng tôi không còn là trẻ thơ nữa... Một chút hoài niệm thoáng qua
trong gió thu se se lạnh...
(Hoài Linh)
II.
Dựa vào câu chủ đề để tóm tắt văn bản
1.
Văn bản “Đọc thơ Xuân Hương”:
Xuân Hương hiện lên trong thơ mình với
những tư thế rất lạ. Nhìn
thì không nhìn thẳng mà Ghé mắt trông sang. Đi thì Người quen cõi Phật
chen chân xọc tuồng như chân giẫm tới đâu là đất thủng tới đó. Đứng là Đứng
chéo trông theo cảnh hắt heo chứ không chịu đứng bình thường. Lúc bực mình
phẫn uất thì văng ngay Chém cha cái kiếp lấy chồng chung... Lúc lên giọng
bề trên thì đanh đá, chua ngoa chẳng nhường gì các cô, lúc phải đấu khẩu chỗ cần
tranh giành, thách thức Lại đây cho chị dạy làm thơ. Lúc buồn nản thì cũng
buồn nản tới tột bực, tưởng chừng mình cũng hoá ra đất đá vô tri Trơ cái hồng
nhan với nước non.
Đến khi miêu tả thiên nhiên, cách
nhìn của Xuân Hương cũng thật kì lạ. Nó như có ma lực làm cho mọi vật sống lên, sôi động.
Màu
sắc dường như muốn thét lên. Tấm ván dầm sương bên bờ giếng, ánh sáng chiếu
vào không chỉ trắng mà trắng phau phau Cầu trắng phau phau đôi ván ghép. Trăng
đang độ rằm lúc mới lên tròn trĩnh như một quả cây lại vàng ửng như đã chín thì
chín nục, chín mõm mòm Một trái trăng thu chín mõm mòm. Cái cửa trên đèo
có tấm bảng và đề chữ sơn son thì không chỉ đỏ mà đỏ loét Cửa son đỏ loét
tùm hum nóc. Còn bên cạnh đó tảng đá phủ rêu chẳng những xanh mà còn xanh
rì Hòn đá xanh rì lún phún rêu.
Âm thanh cũng chẳng êm tai, dịu dàng
gì mà như có đấm, có thụi, đủ hình đủ khối. Gió thổi lên đèo Ba Dội là gió thổi Lắt
lẻo cành thông cơn gió thốc, sương gieo trên lá là gieo tới đầm đìa Đầm đìa
lá liễu giọt sương gieo. Gió ấy mà thổi vào hang thì như trống vỗ phập phòm
Luồng gió thông reo vỗ phập phòm. Thậm chí cái buồn nào trong lòng, con
người không muốn bộc lộ, mà cái chuông cũng lôi ra thành cốc, thành om
khô khan, não nuột Mõ thảm không khua mà cũng cốc. Chuông sầu chẳng đánh
cớ sao om?
Những vật vô tri, yếu ớt tưởng như
không có sức sống cũng hoá ra sắc nhọn. Cái rêu cũng xiên ngang mặt đất mà trồi lên, hòn
đá cũng chĩa thẳng lên trời đâm toạc cả chân mây Xiên ngang mặt đất rêu từng
đám. Đâm toạc chân mây đá mấy hòn. Hai tảng đá to chồng lên nhau tự thuở
nào, dân gian tưởng tượng thành đôi người cổ xưa và gọi là đá ông Chồng bà Chồng
(tại sao không gọi là ông Chồng bà Vợ?). Xuân Hương nhìn tới là hai thớt đá
thành người khăng khít với nhau trong yêu đương vĩnh viễn Gạn nghĩa giãi ra
cùng nhật nguyệt. Khối tình cọ mãi với non sông. Chiếc đũa thần của Xuân Hương
đã biến mấy cô Tố Nữ trong tranh thành người thật, có đủ cả tâm hồn và khát vọng,
bằng một thái độ vừa ngợi ca vừa tiếc rẻ Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình? Chị
cũng xinh mà em cũng xinh.
(Lê
Trí Viễn)
*
Ghép các câu chủ đề trong văn bản trên với nhau, chúng ta sẽ có một văn bản tóm
tắt như sau:
Xuân Hương hiện lên trong thơ mình với
những tư thế rất lạ. Đến khi miêu tả thiên nhiên, cách nhìn của Xuân Hương cũng
thật kì lạ. Màu sắc dường như muốn thét lên. Âm thanh cũng chẳng êm tai, dịu
dàng gì mà như có đấm, có thụi, đủ hình đủ khối. Những vật vô tri, yếu ớt tưởng
như không có sức sống cũng hoá ra sắc nhọn.
2.
Văn bản “Sét là gì?”:
Trong cơn giông, các đám mây đều có
tích điện.
Khi hai đám mây mang điện lại gần nhau, điện phóng từ đám mây này sang đám mây
kia sinh ra một tia lửa lằng nhằng, sáng chói.
Khi tia lửa điện phóng từ trên mây
xuống đất, ta gọi là sét. Sét có sức mạnh ghê gớm: làm đổ nhà đổ cửa, quật ngã cây cối,
gây tai nạn hoặc chết người...
Người ta tìm cách tránh tác hại của
sét bằng cột thu lôi.
Cột thu lôi là một thanh sắt dài và nhọn đầu. Nó được gắn trên các nóc nhà cao,
trên ống khói nhà máy và được nối với đất. Khi có sét, cột thu lôi sẽ truyền điện
xuống đất nên không gây tác hại gì cho các ngôi nhà, các ống khói.
(Theo báo Khoa học và đời sống)
*
Ghép các câu chủ đề trong văn bản trên với nhau, chúng ta sẽ có một văn bản tóm
tắt như sau:
Trong cơn giông, các đám mây đều có
tích điện. Khi tia lửa điện phóng từ trên mây xuống đất, ta gọi là sét. Người
ta tìm cách tránh tác hại của sét bằng cột thu lôi.
Bài tập
I.
Phát hiện lỗi của các đoạn văn sau
1.
Làng em nằm cạnh sông Hồng, phong cảnh thật là tươi đẹp. Sông Hồng có những bãi
ngô non bạt ngàn, xanh mướt mát. Ngô non luộc lên ăn thật tuyệt. Nước ngô uống
rất ngọt và có tác dụng giải nhiệt. Râu ngô phơi khô còn có thể dùng để nhồi chăn,
gối và làm thuốc chữa bệnh.
2.
Mùa đông đã đến thật rồi. Gió lạnh từ phương Bắc tràn về từng cơn dữ dội. Ở phương
Bắc có rất nhiều di tích lịch sử nổi tiếng như Cố cung, Thập tam lăng, Vạn lí
trường thành… Hằng năm có hàng triệu du khách tới thăm các di tích lịch sử đó.
3. Tình bạn là một trong những tình cảm thiêng
liêng của con người. Con người khác con vật bởi con người có lí trí. Con vật cũng
có tình bạn nhưng đó là thứ tình bạn của bản năng bầy đàn. Con vật không thể
giúp đỡ nhau tiến bộ như con người.
4. Đọc sách giúp cho con người mở mang trí tuệ và
tiến bộ. Có những cuốn sách độc hại đang trôi nổi trên thị trường có thể đầu độc
các bạn trẻ. Các cơ quan chức năng đang kiên quyết xử phạt những kẻ tàng trữ và
truyền bá các loại sách độc hại.
5. Tấm Cám là một câu chuyện cổ tích có ý nghĩa
giáo dục sâu sắc. Cám và mụ dì ghẻ đã tìm mọi cách để hãm hại Tấm. Hai mẹ con
Cám đã nhẫn tâm giết con cá bống, chặt cây xoan đào và giết con chim vàng anh.
Tội ác của mẹ con Cám khiến Trời Phật cũng không thể dung tha.
6. Nam học giỏi và rất yêu thể thao. Nam thích chơi
bóng đá từ nhỏ. Cứ sau buổi học là Nam lại cùng bạn bè rủ nhau ra bãi cát ven
sông để chơi đá bóng. Bãi cát phẳng và mịn nên đá bóng ở đấy thật thú vị. Nếu
chẳng may có bị ngã lăn ra cũng chẳng sao vì cát mềm và mát rượi. Thật là tuyệt.
(Ngoài
việc xa chủ đề, đoạn văn này còn mắc lỗi thiếu hụt chủ đề, cụ thể là thiếu ý “học
giỏi”)
7. Núi Đôi là một địa danh nổi tiếng ở Sóc Sơn, Hà
Nội. Người ta biết đến Núi Đôi qua bài thơ “Núi Đôi” của nhà thơ Vũ Cao. Bài thơ
có một câu thật hay: “Núi vẫn đôi mà anh mất em”. Từ xưa tới nay, có rất nhiều
bạn trẻ thuộc lòng và thích ngâm ngợi bài thơ nổi tiếng ấy.
8. Ai về Hà Nội cũng phải đến với Hồ Gươm. Hồ Gươm
có mặt nước bốn mùa trong xanh, thơ mộng. Hồ Gươm có hàng liễu rủ thướt tha. Hồ
Gươm có truyền thuyết vua Lê trả gươm. Vua Lê Thái Tổ là người khởi nghiệp cho
triều đại Hậu Lê chói sáng. Triều Hậu Lê có vị vua nổi tiếng anh minh, tài hoa
là vua Lê Thánh Tông. Vua Lê Thánh Tông là người sáng lập ra Hội Tao Đàn.
9. Ăn mặc đẹp là một biểu hiện của con người có văn
hoá. Nhưng thế nào là mặc đẹp? Mặc đẹp là mặc theo sở thích của mình, mình muốn
mặc thế nào tuỳ ý. Mặc đẹp là phải sắm quần áo hàng hiệu thật đắt tiền. Mặc đẹp
là phải độc đáo, không giống ai. Mặc đẹp là phải đúng mốt. Đúng mốt tức là dù
quần áo đắt tiền đến đâu mà không thấy ai mặc nữa là phải vứt đi ngay.
10. Huỷ hoại môi trường là hành vi tự sát của con
người. Môi trường bao gồm không khí để thở, ánh sáng để trao đổi chất, nước để
sinh hoạt, đất để canh tác lương thực, hoa màu. Hiện nay đất đai trở thành vấn đề
nóng bỏng. Các khu công nghiệp, khu chế xuất, nhà máy… ngốn những diện tích đất
mênh mông khiến cho đất canh tác ngày càng bị thu hẹp. Xu thế đô thị hoá cũng
góp phần làm cho đất đai trở nên khan hiếm và đắt đỏ khủng khiếp.
* Các đoạn văn trên đều có từ một đến hơn
một câu bị lạc chủ đề hoặc xa chủ đề (đoạn văn cụt ý, thiếu hụt ý, loãng ý…).
II.
Phát hiện lỗi và nêu cách sửa cho các đoạn văn sau
1.
Nước ta có nhiều di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh. Ở Hà Nội có lăng Bác Hồ,
có chùa Một Cột. Ở Huế có lăng tẩm các vua chúa nhà Nguyễn. Ở Tây Nguyên có hồ
Tơ Nưng. Ở thành phố Hồ Chí Minh có bến cảng Nhà Rồng nơi Bác Hồ rời nước nhà
ra đi tìm đường cứu nước.
-
Thiếu ý “danh lam thắng cảnh”.
-
Bổ sung các ý “danh lam” (chùa nổi tiếng), “thắng cảnh” (cảnh đẹp nổi tiếng).
2.
Vào đại học là con đường duy nhất để không phải ăn bám gia đình và sống có ích
cho xã hội. Học xong lớp 12 mà thi trượt đại học thì quả là một thảm hoạ. Bạn sẽ
không được đi đâu cả mà chỉ quẩn quanh trong gia đình. Sẽ là kẻ ăn bám và trở
thành gánh nặng khủng khiếp cho cha mẹ. Đó là còn chưa nói đến những mặc cảm tủi
hổ luôn giày vò, những áp lực tâm lí đè nặng trong tâm hồn hằng ngày hằng giờ.
Cho nên bằng mọi giá, phải vào đại học vì đó là con đường sống duy nhất cho tuổi
trẻ hôm nay.
-
Đoạn văn không đúng về tư tưởng “vào đại học là con đường sống duy nhất”!
-
Đoạn văn thiếu hụt ý “sống có ích cho xã hội”
-
Có thể sửa: Vào đại học là một trong những con đường lập thân, lập chí, lập
nghiệp của tuổi trẻ hôm nay. Nếu học xong lớp 12 mà thi đỗ vào đại học thì đó sẽ
là một cơ hội tốt cho bạn. Sau khi tốt nghiệp đại học, bạn có thể có việc làm để
tự nuôi sống bản thân, không phải ăn bám gia đình. Bạn có thể có điều kiện cống
hiến cho xã hội bằng chuyên môn nghề nghiệp của mình. Tuy nhiên, nếu không được
vào đại học thì bạn vẫn có thể trở thành người có ích cho gia đình và xã hội,
miễn là bạn có ý chí và cả lòng kiên nhẫn nữa. Bạn có thể đi học nghề, đi làm
thợ, làm doanh nghiệp… Bạn có thể làm bất cứ việc gì mà pháp luật không cấm để
trở thành một người thành đạt và hữu ích.
3.
Cư dân Văn Lang rất ưa ca hát, nhảy múa. Họ hát trong những đêm trăng hoặc ngày
hội. Họ còn hát trong lúc chèo thuyền, săn bắn. Những nhạc cụ đệm cho những điệu
hát thường là trống đồng, khèn, sáo, cồng…
-
Thiếu ý “nhảy múa”
-
Có thể viết thêm: … Nhưng không phải chỉ có hát, cư dân Văn Lang còn rất thích
nhảy múa. Họ múa lúc nghỉ ngơi. Họ múa những lúc săn bắn được nhiều muông thú.
Họ múa trong lễ hội, trong những ngày mùa bội thu…
4.
Trong lịch sử chống ngoại xâm, chúng ta thấy dân tộc ta anh hùng hào kiệt thời
nào cũng có. Hai Bà Trưng phất ngọn cờ hồng khởi nghĩa đánh tan quân Thái Thú
Tô Định, buộc hắn phải trốn vào đám loạn quân rút chạy về nước. Đất nước sau hơn
hai thế kỉ bị phong kiến nước ngoài đô hộ đã giành được thắng lợi hoàn toàn.
-
Thiếu ý “thời nào cũng có”
-
Có thể viết thêm: Rồi vua tôi nhà Trần với những tên tuổi lừng lẫy như Trần
Nhân Tông, Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Trần Bình Trọng… - những người đã
lãnh đạo nhân dân đánh tan quân Nguyên xâm lược. Rồi người anh hùng Nguyễn Huệ
với với cuộc hành quân thần tốc đánh đuổi quân Thanh xâm lược, giải phóng đất nước.
Và trong các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ có rất nhiều những tên tuổi
từng làm rạng danh cho non sông đất nước như Bế Văn Đàn, Phan Đình Giót, Cù
Chính Lan, Kan Lịch, Út Tịch, Nguyễn Văn Trỗi, Lê Mã Lương, Nguyễn Viết Xuân…
5.
Bên cạnh con cò, con trâu được nói đến nhiều hơn cả trong ca dao, dân ca Việt
Nam. Con trâu không mấy lúc thảnh thơi, cho nên khi nghĩ đến cuộc đời nhọc nhằn
của mình, người nông dân thường nghĩ đến con trâu. Con cò tuy có vất vả, tuy có
lúc phải lặn lội bờ sông nhưng còn có lúc được bay lên mây xanh. Con cò, con vạc,
con nông là những con vật rất gần gũi với người dân lao động. Chúng mang những đức
tính cần cù, chịu khó của người nông dân chân lấm tay bùn. Những lúc cần bộc bạch
nỗi niềm, người nông dân thường đem những con vật đó ra để tâm sự, để giãi bày
nỗi lòng mình.
-
Câu chủ đề định hướng nói về “con trâu”, do đó những câu viết về con cò, con vạc
là lạc chủ đề.
-
Có thể sửa: Bỏ các câu: “Con cò tuy có vất vả…/Con cò, con vạc, con nông…/Chúng
mang những đức tính cần cù…”, thay cụm từ “những con vật đó” ở câu cuối bằng từ
“con trâu”.
6.
Nguyễn Du ghét cay ghét đắng bọn có quyền, có thể, ỷ vào đồng tiền để đẩy Kiều
tới chỗ tan nát cuộc đời. Nguyễn Du ghét đám sai nha bắng nhắng, hách dịch, độc
ác, dơ dáy. Chúng ập vào nhà họ Vương như một lũ “ruồi xanh”, gây nên tai hoạ. Ở
đâu chúng cũng giở trò vòi vĩnh của cải, tiền bạc. Tiền bạc đã choán hết lương
tri, choán hết tâm hồn chúng. Chúng đâu có nghĩ gì đến nỗi oan ức của gia đình
họ Vương. Nguyễn Du cũng ghét cay ghét đắng bọn Ưng Khuyển, ghét cay ghét đắng
bọn buôn thịt bán người. Và cái ông quan Hồ Tôn Hiến, dưới ngòi bút của Nguyễn
Du cũng chỉ là ông quan “Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình”. Đối với bọn này,
tài tình,, hiếu hạnh như Kiều cũng chỉ là một món hàng buôn qua bán lại.
-
Đoạn văn mắc lỗi viết nhiều câu khai triển bậc 2, bậc 3.
-
Có thể sửa: Bỏ các câu: “Chúng ập vào nhà họ Vương…/Ở đâu chúng cũng…/Tiền bạc đã
choán hết…/Chúng đâu có nghĩ gì…”.
7.
Mọi vật đều như ngưng đọng trong bài thơ “Câu cá mùa thu” của Nguyễn Khuyến. Cảnh
vật phảng phất nỗi buồn man mác. Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo cô quạnh. Một
ngõ trúc vắng vẻ đìu hiu. Mọi vật thấm đượm cái buồn cô đơn. Nỗi buồn tràn vào
cảnh vật. Ở chỗ nào cũng chỉ thấy nỗi buồn ngưng đọng. Chiếc thuyền buồn, ngõ
trúc buồn, và chiếc lá vàng rơi cũng buồn. Nỗi buồn ẩn giấu trong mọi sự vật.
Mùa thu ở đây buồn hay chính tâm tư của Nguyễn Khuyến đượm buồn.
-
Đoạn văn mắc lỗi lặp ý.
-
Có thể sửa: Mọi vật đều như ngưng đọng trong bài thơ “Câu cá mùa thu” của Nguyễn
Khuyến. Cảnh vật phảng phất một nỗi buồn man mác. Một chiếc thuyền câu bé tẻo
teo. Một ngõ trúc quanh co, vắng vẻ. Một chiếc lá vàng lạnh lẽo, cô đơn. Nỗi buồn
đã ẩn giấu trong tất cả mọi vật. Mùa thu ở đây buồn hay chính tâm tư của Nguyễn
Khuyến buồn.
8.
Lịch sử dân tộc ta đã ghi lại biết bao trang sử hào hùng với những tên tuổi
sáng chói muôn đời không quên. Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán. Nguyễn Huệ đánh
tan quân xâm lược nhà Thanh. Lê Lợi phá tan quân Nguyên. Ải Chi Lăng mãi mãi là
nơi mồ chôn quân xâm lược. Rồi Trần Hưng Đạo lãnh đạo nhân dân đánh đuổi quân
Minh giành lại nền độc lập cho Tổ quốc. Cửa biển Bạch Đằng lập chiến công lừng
lẫy non sông. Những tên tuổi đó sẽ sống mãi cùng non sông đất nước.
-
Đoạn văn trình bày lộn xộn, sai lạc kiến thức lịch sử, sai cả về tư duy lôgic (Ải
Chi Lăng, Cửa biển Bạch Đằng là địa danh, không phải tên tuổi!)
-
Có thể sửa: Lịch sử dân tộc ta đã ghi lại biết bao trang sử hào hùng với những
tên tuổi sáng chói muôn đời không quên. Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán xâm lược.
Trần Hưng Đạo lãnh đạo nhân dân đánh đuổi quân Nguyên Mông xâm lược. Lê Lợi đánh
đuổi quân Minh. Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh… Những tên tuổi ấy sẽ mãi mãi sống
cùng non sông đất nước.
9. “Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây”…Tiếng
súng của giặc Tây nổ ra đột ngột phá tan cảnh sống yên lành của nhân dân.
Câu thơ gợi cảm giác kinh hoàng về
cái tai hoạ ập đến quá bất ngờ khiến cho người dân dường như chưa thấy bóng giặc
đã thấy tội ác của chúng. Chính tiếng súng đó đã đẩy nhân dân ta vào cảnh khốn
khổ, điêu linh. Cái cảnh “lũ trẻ bỏ nhà”, “bầy chim mất ổ”… tan tác, nháo nhác đã
gây ấn tượng mạnh trong lòng người đọc. Rõ ràng là tác giả phải có sự cảm thông
sâu sắc, sự thương yêu gắn bó với nhân dân mới có sự tưởng tượng và phác hoạ được
những hình ảnh chân thực, đầy xúc động đến như vậy.
-
Đoạn văn mắc lỗi hình thức: không được tách câu và xuống dòng trong cấu trúc nội
tại của một đoạn văn.
10.
Nam Cao viết nhiều về nông thôn. Lão Hạc ăn bả chó tự tử để tránh đói. Anh cu
Phúc chết lặng lẽ trong xó nhà ẩm ướt trước những đôi mắt “dại đi vì quá đói” của
hai đứa con (Điếu văn). Bà cái Tí chết vì một bữa no, tức là một kiểu chết vì
quá đói (Một bữa no). Lại có cả cảnh đám cưới, nhưng cưới để chạy đói…
-
Đoạn văn mắc lỗi lạc chủ đề.
-
Có thể sửa: Viết lại câu chủ đề là “Nam Cao đã viết khá nhiều về cái đói”
11.
Ông Thẩm đi thăm con trai. Đơn vị pháo đóng bên một dòng sông. Mùa lạc đang vào
vụ thu hoạch. Thành quả tăng gia sản xuất thật đáng trân trọng.
-
Đoạn văn thiếu liên kết hình thức.
-
Có thể sửa: Ông Thẩm đi thăm con trai là bộ đội. Đơn vị pháo của nó đóng bên một
dòng sông. Ở đấy mùa lạc đang vào vụ thu hoạch. Đó là thành quả tăng gia sản xuất
thật đáng trân trọng của những người lính.
12.
Nơi lạnh nhất không phải là Bắc cực hay Nam cực. Nơi thiếu vắng tình thương khiến
cho con người cảm thấy cô đơn, lạnh lẽo. Tình thương là một thuộc tính cao quí
của con người. Tuy rằng con vật cũng có tình thương (hổ dữ không ăn thịt con)
nhưng đó chỉ là bản năng. Còn tình thương của con người có ý thức. Trước hết là
sự nhạy cảm, là lòng trắc ẩn. Sau đó là ý thức trách nhiệm, là lòng nhân ái. Đó
là vẻ đẹp làm người.
-
Đoạn văn mắc các lỗi: lạc chủ đề, lan man, loãng ý, thiếu liên kết.
-
Có thể sửa: Nơi lạnh nhất không phải là Bắc cực hay Nam cực mà là nơi thiếu vắng
tình thương của con người. Nếu người ta có thể chống lại cái lạnh ở Bắc cực hay
Nam cực bằng các phương tiện vật chất như áo ấm, lò sưởi… thì trái lại, sự thiếu
vắng tình thương sẽ khiến cho con người cảm thấy lạnh lẽo mà không có cách gì
khắc phục được. Tình thương là một thuộc tính cao quí của con người và nhờ nó
mà con người cảm thấy ấm áp và yêu cuộc sống hơn.
13.
Phê phán thái độ dửng dưng vô cảm trước cái xấu cái ác cũng quan trọng như ngợi
ca cái tốt cái thiện. Cái tốt cái thiện có rất nhiều và đã trở thành truyền thống
tương thân tương ái của dân tộc như “chị ngã em nâng”, “lá lành đùm lá rách”…
Cái tốt cái thiện như mạch nước ngầm tươi mát góp phần làm dịu bớt bao nỗi đau đớn,
bất hạnh của con người. Cái xấu cái ác không hề ít hơn cái tốt cái thiện. Chúng
tác oai tác quái và gây đổ máu cho những người lương thiện thấp cổ bé họng. Cần
phải đấu tranh đẩy lùi cái xấu cái ác.
-
Đoạn văn thiếu liên kết hình thức.
-
Có thể thêm vào trước câu 4: Ngược lại, có thể nói, cái xấu cái ác không hề ít
hơn cái tốt cái thiện.
-
Có thể viết lại câu cuối: Vì vậy, phê phán thái độ dửng dưng vô cảm trước cái xấu
cái ác cũng quan trọng như ngợi ca cái tốt cái thiện.
14.
Tác phẩm văn học nào cũng có nhân vật, tức là có con người. Những con người ấy đã
được điển hình hoá, khái quát hoá, tiêu biểu cho một loại người nhất định trong
xã hội. Nhân vật thầy giáo không nhất thiết phải là một thầy giáo tốt. Nhân vật
anh bộ đội không nhất thiết phải là một anh bộ đội dũng cảm. Nhân vật một vị
lãnh đạo không nhất thiết phải là một người đạo cao đức trọng. Cần phân biệt
nhân vật trong tác phẩm văn học với những con người cụ thể ngoài đời.
-
Đoạn văn mắc lỗi liên kết hình thức và lỗi ngắt câu.
-
Có thể sửa: Tuy nhiên, nhân vật thầy giáo…, nhân vật anh bộ đội…, nhân vật một
vị lãnh đạo…
15.
Hiện nay có rất nhiều bạn học sinh, sinh viên chán ghét môn văn. Môn toán, môn
lí, môn tiếng Anh, môn tin học… thường cho các bạn học sinh, sinh viên nhiều cơ
hội hơn. Nhờ các môn ấy, các bạn học sinh, sinh viên có thể có việc làm, có tương
lai. Môn văn chỉ dành cho những bạn mơ mộng trở thành nhà văn, nhà thơ thôi. Gọi
là nhà văn, nhà thơ thì nhiều nhưng thành đạt và nổi tiếng thì vô cùng ít ỏi.
Dù có trở thành nhà văn, nhà thơ nổi tiếng thì cũng khó mà giàu có được.
-
Đoạn văn mắc lỗi liên kết hình thức, xa chủ đề.
-
Có thể sửa: Hiện nay có rất nhiều bạn học sinh, sinh viên chán ghét môn văn. Có
thể có nhiều nguyên nhân, nhưng một trong những nguyên nhân dễ thấy là các môn
học khác như toán, lí, tiếng Anh, tin học thường cho các bạn học sinh, sinh viên
nhiều cơ hội hơn. Nhờ các môn ấy mà các bạn có thể có việc làm và có tương lai.
Còn môn văn thì hình như chỉ dành cho những bạn mơ mộng trở thành nhà văn, nhà
thơ thôi.
16.
Khi phân tích Truyện Kiều cần chú ý đến bối cảnh xã hội. Năm “Gia Tĩnh triều Minh…
Bốn phương phẳng lặng hai kinh vững vàng” mà cuộc đời Kiều khốn khổ thế. Bọn
quan lại, bọn sai nha đã bịt mắt nhà vua để làm càn mà nhà vua không biết tí gì
thì buồn cười thật. Hoá ra nhà vua chỉ là bù nhìn thôi ư? Hay nhà vua biết mà
dung túng, bao che cho bọn quan lại, sai nha làm bậy làm bạ như thế?
-
Đoạn văn mắc lỗi lạc chủ đề và dùng khẩu ngữ (không biết tí gì thì buồn cười thật,
làm bậy làm bạ).
-
Có thể sửa: … Trong cảnh thái bình như vậy mà bọn quan lại, sai nha vẫn mặc sức
hoành hành gieo tai giáng hoạ cho người dân lương thiện thì trong cảnh loạn lạc
những người vô tội như gia đình Vương ông, như Thuý Kiều sẽ còn bất hạnh đến nhường
nào? Chính cái bối cảnh xã hội “thái bình” ấy tự nó đã có một giá trị tố cáo rất
cao.
17.
Nói dối là một thói xấu rất khó sửa. Có những sự thật của mình nói ra thì xấu hổ.
Có những sự thật nói ra thì mếch lòng người nghe. Có những sự thật nói ra thì dễ
bị vạ miệng. Có những sự thật nói ra thì dễ hỏng việc. Có những sự thật nói ra
thì cấp trên nổi giận. Lại có những sự thật nói ra thì vô cùng buồn cười…
-
Đoạn văn mắc lỗi liên kết hình thức, lỗi diễn đạt và lỗi thiếu hụt ý.
-
Có thể sửa: Nói dối là một thói xấu rất khó sửa. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến
việc nói dối, chẳng hạn…. Vì vậy, ban đầu, có thể chỉ để tránh phải nói ra những
sự thật không có lợi nên người ta nói dối. Lâu dần thành quen. Việc gì cũng nói
dối. Người nào cũng nói dối. Tới khi không còn ai cảm thấy băn khoăn hay xấu hổ
gì về cái việc nói dối ấy nữa thì nó trở thành một thói quen rất khó sửa.
18.
Tai nạn giao thông ngày càng trở thành nỗi ám ảnh của những người đi đường. Đi
bộ cũng chết vì bị ô tô, xe máy tông vào. Đi xe máy cũng chết vì những vụ va quệt
bạt mạng. Đi ô tô cũng chết vì những vụ đâm nhau, lật xe… Các phương tiện tham
gia giao thông đều tiềm ẩn những nguy cơ mà ai cũng lo lắng, sợ hãi.
-
Đoạn văn thiếu liên kết hình thức và thiếu hụt ý.
-
Có thể sửa: Tai nạn giao thông ngày càng trở thành nỗi ám ảnh của người đi đường.
Các phương tiện tham gia giao thông như xe máy, ô tô đều tiềm ẩn những nguy cơ
mà ai cũng lo lắng, sợ hãi. Ngay cả việc đi bộ cũng chưa chắc đã tuyệt đối an
toàn. Vậy nguyên nhân sâu xa của việc gây ra những tai nạn giao thông ấy là gì?
Trước hết là ý thức chấp hành luật giao thông của những người điều khiển các phương
tiện như xe máy, ô tô và ý thức của cả người đi bộ khi băng qua các ngã ba, ngã
tư, các giao lộ hoặc không đi đúng phần đường của mình theo qui định. Có thể
nói, muốn giảm bớt các tai nạn giao thông và xua tan nỗi ám ảnh không đáng có
kia thì trước hết mọi người cần nâng cao ý thức chấp hành luật giao thông và những
người có trách nhiệm cần xử phạt thật nghiêm những ai cố tình vi phạm luật giao
thông.
19.
Hôm nay là thời hạn chót nộp bài dự thi. Mùa vải thiều ở Bắc Giang bội thu nhưng
lại đang bị rớt giá thê thảm. Ti vi đưa tin và hình ảnh về việc bà con nông dân
ở huyện Đông Anh đã đổ hàng núi rau xanh làm phân bón ruộng. Dịch cúm gia cầm
bùng phát và lan rộng ở hơn hai mươi tỉnh, thành trong cả nước.
-
Chuỗi câu hỗn độn, không phải đoạn văn.
20.
Cò và vạc là hai anh em nhưng tính nết rất khác nhau. Mảnh vải này dài sáu mét.
Con mèo đen đã chết. Dịch lở mồm long móng ở trâu bò đang làm bà con nông dân điêu
đứng. Bóng đá không chỉ là một trò chơi mà còn là hoạt động thể thao – văn hoá.
Những đứa trẻ ở vùng sâu vùng xa của huyện Ba Vì được sinh ra và tự lớn lên
hoang dại như cỏ cây hoa lá trên rừng.
-
Chuỗi câu hỗn độn, không phải đoạn văn.
21.
Cảnh vật trong bài thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến thật là vắng vẻ. Ngõ
trúc quanh co, sóng nước gợn tí, lá vàng đưa vèo, chiếc thuyền bé tẻo teo… Cảnh
vật dường như ngưng đọng, im lìm. Bởi vậy, nét bút của Nguyễn Khuyến đã tạo dựng
thành công cảnh sắc im ắng ấy.
- Luận điểm nêu chưa rõ,
nội dung trùng lặp mà không có sự nhấn mạnh hay phát triển ý.
- Hướng sửa: Viết lại luận
điểm. Thực ra, đây là một đoạn văn có câu chủ đề đứng ở đầu đoạn (đoạn diễn dịch)
và các câu khai triển bậc 1. Có thể viết lại đoạn văn như sau:
“Cảnh vật trong bài thơ Thu
điếu của Nguyễn Khuyến gợi cho người đọc cảm giác về sự lẻ loi, hiu quạnh
thật đáng sợ. Nếu là sự vật thì chỉ là Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo. Nếu
là âm thanh thì chỉ là hơi gợn tí, khẽ đưa vèo. Và cái ngõ quê vốn là nơi
ồn ào những lời chào hỏi, náo động những tiếng hò reo của trẻ con thì sao mà lạnh
lẽo: Ngõ trúc quanh co khách vắng teo…”.
22. “Nam
nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”
Người làm trai thời xưa
luôn mang theo bên mình món nợ công danh, mang khao khát “vinh qui bái tổ”, “chức
cao vọng trọng” để làm rạng danh tổ tiên, để mở mày mở mặt với thiên hạ… Phạm
Ngũ Lão cũng mang theo bên mình món nợ công danh, nhưng qua hai câu thơ của ông
có thể thấy cách nhìn, hoài bão và khao khát của ông cao hơn, xa hơn hẳn kẻ tầm
thường. Theo ông, người làm trai phải trả món nợ công danh để không hổ thẹn với
những người đi trước mình, những người xung quanh mình và quan trọng hơn là
không hổ thẹn với chính bản thân mình.
- Chưa nêu được luận điểm.
- Viết một câu có chứa
luận điểm. Có thể viết lại đoạn văn:
“Hai câu thơ (…) nói lên
hoài bão về công danh, sự nghiệp của Phạm Ngũ Lão là làm trai sống ở trong trời
đất phải biết lập công đền nợ nước và để lại tiếng thơm cho đời. Trong hoàn cảnh
lịch sử thời ấy, hoài bão của Phạm Ngũ Lão đã trở thành lí tưởng tích cực có
tác dụng to lớn đối với xã hội. Lí tưởng ấy còn góp phần khích lệ con người từ
bỏ lối sống tầm thường, ích kỉ để sẵn sàng chiến đấu, hi sinh vì nghĩa lớn”.
23. Văn học dân gian ra đời
từ thời xa xưa nhưng đến nay vẫn tiếp tục phát triển. Nhắc đến nó, người ta
hình dung ngay ra một cuốn sách bách khoa về cuộc sống. Tiếp nhận văn học dân
gian là tiếp nhận tri thức hữu ích từ cuộc sống. Không cần lí lẽ, hình ảnh quá
trừu tượng mà chính là kinh nghiệm từ đời sống phong phú sinh động đã khiến văn
học dân gian có sức hấp dẫn. Ví như câu tục ngữ: “Cơn đằng đông vừa trông vừa
chạy/Cơn đằng nam vừa làm vừa chơi”. Câu tục ngữ đã đúc kết được kinh nghiệm từ
thực tế: Cơn mưa từ đông kéo tới thì mưa rất nhanh. Trái lại, cơn mưa đằng nam
kếo đến thì rất lâu mới có mưa. Câu tục ngữ này đã giúp ích rất nhiều cho bà
con nông dân.
- Nêu nhiều luận điểm nhưng
không luận điểm nào được triển khai đầy đủ.
- Chọn một luận điểm phù
hợp để triển khai đoạn văn. Có thể viết lại đoạn văn như sau:
“Văn học dân gian được
coi là một cuốn sách bách khoa về đời sống. Người ta có thể tìm thấy trong cuốn
sách ấy những kinh nghiệm ứng xử với thiên nhiên và xã hội. Với các hiện tượng
thiên nhiên thì Cơn đằng đông vừa trông vừa chạy/Cơn đằng nam vừa làm vừa chơi.
Với các quan hệ giữa con người với con người trong xã hội thì Lời nói chẳng
mất tiền mua/Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau…”.
24. Từ xưa, vẻ đẹp và số
phận của người phụ nữ luôn là một đề tài chủ đạo trong thơ văn. Trong nền văn học
trung đại Việt Nam, nhiều tác giả đã viết về đề tài này như Hồ Xuân Hương, Nguyễn
Khuyến, Nguyễn Dữ, Đặng Trần Côn… Nhưng người đã phản ánh một cách sâu sắc nhất
bi kịch của người phụ nữ chính là Nguyễn Du.
- Các câu khai triển
không hướng vào câu chủ đề, chưa tập trung làm rõ ý cho câu chủ đề.
- Có thể viết lại đoạn văn:
“Từ xưa đến nay, vẻ đẹp
và số phận người phụ nữ luôn là một trong những đề tài chủ đạo của thơ văn. Ca
dao xưa có những câu thật hay: Thân em như dải lụa đào/Phất phơ giữa chợ biết
vào tay ai; Thân em như giếng giữa đàng/Người khôn rửa mặt người phàm rửa chân.
Rồi vẻ đẹp đoan trang và số phận bi thảm của nàng Vũ Thị Khiết trong
Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ. Đặc biệt là tài sắc và cuộc đời chìm nổi lênh
đênh của nàng Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du…”.
25. Nam Cao viết nhiều về
nông thôn. Có người nông dân bị bần cùng đến nỗi lưu manh hoá như Chí Phèo. Có
người nông dân tự trọng như Lão Hạc. Lại có những người nông dân tối tăm, đói
khát như anh cu Phúc, bà cái đĩ…
- Các câu khai triển
không bám sát câu chủ đề.
- Có thể viết lại đoạn văn
như sau:
“Nam Cao viết nhiều về
nông thôn và người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Trong các tác
phẩm của ông, nông thôn thì tiêu điều xơ xác, còn người nông dân thì đang bị dồn
đuổi tới bên bờ vực thẳm của sự tuyệt vọng. Các nhân vật nông dân của ông vô
cùng phong phú đa dạng. Có người bị bần cùng hoá, lưu manh hoá như Chí Phèo. Cũng
có người tuy rơi vào cảnh ngộ khốn cùng nhưng vẫn giữ được lòng tự trọng và phẩm
giá như Lão Hạc. Lại có những người là nạn nhân thê thảm của cái đói như anh cu
Phúc, bà cái đĩ…”.
26. Mùa thu là một đề
tài gợi nhiều cảm hứng cho thi nhân. Chính vì thế, mùa thu đã là một thi đề
quen thuộc trong thơ ca trung đại Việt Nam. Tinh tế và sâu lắng nhất phải kể đến
cảnh thu với nỗi sầu muộn vô biên của Đỗ Phủ (Thu hứng). Còn trong thơ ca Việt
Nam trung đại, Nguyễn Khuyến chính là nhà thơ của mùa thu làng quê với chùm thơ
Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm.
- Câu chủ đề có nghĩa rất
rộng, nhưng các câu khai triển lại chỉ bó hẹp trong hai tác giả Đỗ Phủ và Nguyễn
Khuyến khiến cho đoạn văn bị hụt hẫng về ý. Câu thứ hai giới hạn “trong thơ ca
trung đại Việt Nam”, nhưng câu thứ ba lại nói đến Đỗ Phủ khiến cho ý nghĩa của đoạn
văn bị rối nát.
- Có thể viết lại câu chủ
đề và cả đoạn văn như sau:
“Mùa thu là một đề tài gợi
nhiều cảm hứng cho thi nhân nói chung, Nguyễn Khuyến nói riêng. Ai cũng biết
mùa thu để lại trong lòng người Việt Nam bao nhiêu tâm tình, bao nhiêu cảm xúc
bởi vì mùa thu là mùa thơ và mùa thơ cũng lại là mùa thu. Đã có biết bao bài thơ
về mùa thu và biết bao thi sĩ gửi gắm tâm hồn mình vào mùa thu. Xuân Diệu có Đây
mùa thu tới, Lưu Trọng Lư có Tiếng thu, Tố Hữu có Mùa thu mới…
Mỗi bài thơ là một mảnh hồn riêng, một nỗi niềm riêng. Mùa thu với Xuân Diệu là
sự vồ vập đắm say. Với Lưu Trọng Lư là nỗi buồn ngơ ngác bâng khuâng. Còn với Tố
Hữu lại là tiếng reo vui… Riêng với Nguyễn Khuyến thì mùa thu là sự tĩnh lặng
tuyệt đối. Trong cây đàn muôn điệu về mùa thu tuyệt vời, Nguyễn Khuyễn có một
giai điệu riêng trầm mặc, cổ kính. Đó là một mùa thu của tâm hồn ưu thời mẫn thế.
Một mùa thu khắc khoải bồn chồn. Một mùa thu trống vắng cô đơn. Trong chùm thơ
về mùa thu của Nguyễn Khuyến, Thu điếu là một bài thơ độc đáo. Cái độc đáo
của bài Thu điếu chính là ở sự cô đơn cao ngạo trước bao thói nhố nhăng
của thời cuộc. Nỗi cô đơn của một tâm hồn thanh cao luôn khát khao vươn tới những
giá trị chân, thiện, mĩ của nhân cách và nghệ thuật”.
27. Giá trị quan trọng
nhất của văn học dân gian là giá trị nhận thức. Văn học dân gian chứa đựng một
lượng kiến thức khổng lồ, phong phú về tự nhiên và đời sống xã hội. Những câu tục
ngữ, ca dao vừa cung cấp cho chúng ta những hiểu biết, những kinh nghiệm sống,
vừa tác động mạnh mẽ đến tâm hồn con người. Ví dụ như câu: “Chuồn chuồn bay thấp
thì mưa/Bay cao thì nắng bay vừa thì râm” là một cách dự báo thời tiết của nhân
dân ta.
- Đoạn văn mắc lỗi thiếu
hụt chủ đề:
+ “văn học dân gian” không chỉ có ca dao, tục ngữ, mà còn có
truyện cổ, truyện cười…
+ “giá trị nhận thức” không chỉ có hiểu biết về tự nhiên, mà còn
có hiểu biết về đời sống.
+ Hiểu biết về thiên nhiên không chỉ có kinh nghiệm về thời tiết,
mà còn có hiểu biết về vũ trụ, về các sự vật, hiện tượng…
28. Người thanh niên
trong truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long không chỉ say mê công
việc, lạc quan, yêu đời mà còn rất thèm người. Anh thèm người tới mức đã tự tay
lăn một cây to chặn ngang giữa đường để được gặp mặt và trò chuyện với đoàn
khách lên Sa Pa dù chỉ là một vài phút. Chính cái sự thèm người ấy đã làm cho
ta phần nào hiểu thêm về tính cách của anh. Anh sống lặng lẽ một mình, làm một
công việc thầm lặng nhưng không có nghĩa là anh chán ghét cuộc đời. Anh vẫn yêu
đời, vẫn yêu người. Đó là biểu hiện rõ nét nhất của tinh thần lạc quan.
- Viết lại câu chủ đề:
“Người thanh niên… không chỉ yêu đời, mà
còn rất yêu thiên nhiên”
Hoặc:
“Người thanh niên… tuy rất say mê với
công việc của mình, nhưng vẫn luôn khắc khoải một nỗi thèm người”.
- Viết các câu khai triển:
+ Nếu theo câu chủ đề thứ nhất thì phải viết đủ hai ý: yêu đời,
yêu thiên nhiên. Từ hai ý này dẫn đến kết luận về “tinh thần lạc quan”.
+ Nếu theo câu chủ đề thứ hai thì phải viết đủ hai ý: say mê
công việc, thèm người. Từ hai ý này dẫn đến kết luận về sự hi sinh thầm lặng của
người thanh niên.
29. Truyện ngắn “Vợ nhặt”
của Kim Lân đã cho thấy sức mạnh của tình người trong hoàn cảnh khó khăn của cuộc
sống. Nhờ có mấy bát bánh đúc mà người đàn bà trở thành vợ của Tràng. Cũng
chính vì đói mà họ nương tựa vào nhau, chia sẻ với nhau giữa lúc hoạn nạn. Đó
chính là biểu hiện của giá trị nhân đạo trong tác phẩm.
- Viết lại câu chủ đề:
“Truyện ngắn… đã cho ta thấy vẻ đẹp của
tình thương trong hoàn cảnh ngặt nghèo của nạn đói khủng khiếp năm 1945”.
- Viết các câu khai triển:
+ Tình thương đồng loại giữa Tràng và người đàn bà đã dẫn đến
một cuộc “hôn nhân” mà lúc đầu thì có vẻ tình cờ, nhưng về sau thì sâu sắc, cảm
động.
+ Tình thương của bà cụ Tứ đối với nàng dâu và người con trai.
+ Sự đồng cảm của những người cùng cảnh ngộ trong xóm ngụ cư đối
với vợ chồng Tràng.
+ Nhờ có tình thương mà con người có khát vọng được sống, được
đổi đời.
30. Nếu ai đã từng ra biển
thì hẳn phải cảm nhận được vẻ đẹp kì diệu và sức mạnh của những con sóng miên
man vỗ bờ. Những con sóng luôn biến đổi khôn lường, lúc thì êm ả, dịu dàng, lúc
lại sôi sục, dữ dội. Và những con sóng ấy dường như không biết mệt. Sóng từ đâu
đến và sóng đi đâu, về đâu? Chính vì thế, Xuân Quỳnh đã ví tình yêu của mình như
những con sóng “Dữ dội và dịu êm/Ồn ào và lặng lẽ”. Chính Xuân Quỳnh đã hoá
thân vào những con sóng để nói lên tình yêu của mình.
- Viết lại câu chủ đề:
“Trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh,
sóng là một hình tượng đa nghĩa và đầy bí ẩn”.
Ví dụ:
Trong bài thơ Sóng
của Xuân Quỳnh, sóng là một hình tượng đa nghĩa và đầy bí ẩn. Xuân Quỳnh tập trung bút lực để miêu tả chỉ
một đối tượng là sóng và qua những biến hoá bí ẩn của sóng, Xuân
Quỳnh muốn nói đến những cung bậc khác nhau của tình yêu lứa đôi. Con sóng của
tình yêu rất khác với sóng gợn thể hiện một tâm trạng chết lặng trước thời cuộc
của Nguyễn Khuyến: Sóng biếc theo làn hơi gợn tí (Thu điếu) hoặc sóng gợn
trong một nỗi sầu thiên cổ vô tận của Huy Cận: Sóng gợn Tràng giang buồn điệp
điệp (Tràng giang). Con sóng tình yêu của Xuân Quỳnh là con sóng sôi động,
trăn trở, thao thức, băn khoăn, hồi hộp, âu lo... con sóng đã được tâm hồn
hoá, nội tâm hoá! Sóng là một hình tượng đa nghĩa: sóng vừa là chính nó, một
sự vật hữu hình vĩnh cửu của tự nhiên, vừa là hiện thân cụ thể sinh động cho chủ
thể trữ tình em, nghĩa là sóng hoá thân thành em và em được
vật chất hoá thành sóng để tạo thành cặp em-anh đi đôi với cặp sóng-bờ.
Hình tượng sóng được chở đi trong mạch thơ chủ yếu bằng âm điệu. Cả
bài thơ là một âm hưởng sôi động, tiết tấu nhịp nhàng, lúc dạt dào sôi nổi, khi
thầm thì lắng gợi tạo ra một liên tưởng về những đợt sóng triền miên không dứt.
Tất cả được diễn đạt bằng thể thơ năm chữ với những câu thơ liền mạch hầu như
không ngắt nhịp và được nối vần qua các khổ thơ liên tiếp. Nhịp sóng đó tương đồng
với nhịp điệu tâm hồn của cái tôi trữ tình, một tâm hồn đầy biến động, luôn chất
chứa những khao khát rạo rực và lo âu day dứt. Vì vậy, con sóng là một ẩn dụ
phù hợp để biểu hiện một tình yêu vô cùng tinh tế, nhưng cũng cực kì phức tạp:
Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
…
Lưu
ý:
Trong cuốn 150 bài tập rèn luyện
kĩ năng dựng đoạn văn*, tác giả đã giới thiệu một hệ thống bài tập về đoạn
văn rất đa dạng, phong phú, bổ
ích, thiết thực đối với học sinh THCS & THPT nói riêng; các bạn giáo viên
và phụ huynh học sinh nói chung. Các bạn có thể tìm đọc để tham khảo và sử dụng.
*
Nguyễn Quang Ninh. NXB ĐHSP Hà Nội, 1993
Hệ
thống bài tập về đoạn văn gồm:
Bài tập nhóm 1:
Luyện dựng đoạn theo nội dung và kết cấu
- Luyện dựng câu chủ đề
- Luyện dựng đoạn văn có câu chủ đề
+
Dựng đoạn diễn dịch
+
Dựng đoạn quy nạp
+
Dựng đoạn tổng - phân - hợp
- Luyện dựng đoạn văn không có câu chủ đề
+
Dựng đoạn song hành
+
Dựng đoạn móc xích
Bài tập nhóm 2:
Luyện dựng đoạn theo chức năng
- Luyện dựng đoạn mở bài
+
Dựng đoạn mở bài trực tiếp
+
Dựng đoạn mở bài gián tiếp
- Luyện dựng đoạn kết bài
+
Dựng đoạn kết khép
+
Dựng đoạn kết mở
- Luyện dựng đoạn nối
+
Dựng đoạn nối thuần tuý
+
Dựng đoạn nối không thuần tuý
Bài tập nhóm 3:
Luyện biến đổi đoạn văn
- Luyện rút gọn đoạn
+
Rút gọn đoạn có câu chủ đề
+
Rút gọn đoạn không có câu chủ đề
- Luyện mở rộng đoạn
+
Mở rộng đoạn có câu chủ đề
+
Mở rộng đoạn không có câu chủ đề
- Luyện chuyển đổi đoạn
+
Chuyển đổi nội dung
+
Chuyển đổi kết cấu
- Luyện tách đoạn
+
Tách đoạn theo thời gian
+
Tách đoạn theo không gian
+
Tách đoạn theo sự thay đổi chủ đề
+
Tách đoạn theo mục đích nhấn mạnh
Bài tập nhóm 4:
Luyện phát hiện và sửa chữa lỗi đoạn văn
- Phát hiện và sửa lỗi nội dung
+
Lỗi chủ đề
+
Lỗi lô-gic
- Phát hiện và sửa lỗi hình thức
+
Lỗi sử dụng phương tiện liên kết
+
Lỗi về dung lượng đoạn.
Tài
liệu tham khảo chính
1. Trần
Ngọc Thêm: Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt. NXB GD HN, 2002
2. Diệp
Quang Ban: Văn bản và liên kết trong tiếng Việt (Văn bản, mạch lạc, liên kết, đoạn
văn). NXB GD HN, 1998.
3. Diệp
Quang Ban: Văn bản. Giáo trình CĐSP. NXB ĐHSP HN, 2006.
4.
Bùi Minh Toán, Nguyễn Quang Ninh: Tiếng Việt thực hành. NXB ĐHSP, 2003
5. Diệp
Quang Ban, Hoàng Dân: Giáo trình Tiếng Việt (sách CĐSP). NXB GD HN. 2001.
6.
Nguyễn Quang Ninh, Hoàng Dân: Tiếng Việt – Ngữ pháp văn bản. NXB GD HN, 1994.
7.
Nguyễn Đức Tồn: Những vấn đề dạy và học Tiếng Việt trong nhà trường. NXB ĐHQG
HN. 2001.
8.
Nguyễn Thị Thuý, Lê Minh Thu: Vui học tiếng Việt. NXB ĐHSP. 2006.
9.
Nhiều tác giả: SGK Ngữ văn các lớp 6,7,8,9,10,11,12. NXB GD.HN. 2002 – 2008.
10.
Nguyễn Văn Đường, Hoàng Dân: Sách Thiết kế bài giảng Ngữ văn các lớp
6,7,8,9,10,11,12 NXB ĐHQG. HN. 2002 và NXB Hà Nội. 2003 đến 2008.
- Phần Văn: Nguyễn Văn Đường viết từ lớp 6 đến lớp 12.
- Phần Tiếng Việt: Hoàng Dân viết từ lớp 6 đến lớp 12.
- Phần Tập làm văn: THCS viết chung, THPT Hoàng Dân viết.
11.
Hoàng Dân: Tiếng Việt cho mọi nhà. NXB Thanh niên. HN, 2006.
12.
Hoàng Dân: Sổ tay từ ngữ Việt Nam .
NXB Thanh niên. HN. 2007.
13.
Nguyễn Quang Ninh: 150 bài tập rèn luyện kĩ năng dựng đoạn văn. NXB ĐHSP HN.
1993.
14. Các tài liệu thay
SGK Ngữ văn từ 2002 đến 2008 của Bộ GD&Đ