Kim Lân
I.Hoàn cảnh sáng tác
- VỢ NHẶT – Kim Lân . Đầu năm 1940, phát xít Nhật nhảy vào
Đông Dương, nhân dân ta lâm vào tình thế một cổ hai tròng. Ở miền Bắc nước ta. Nhật bắt nhổ lúa trồng đay, trong khi
đó, Pháp tăng thuế ra sức vơ vét, bóc
lột nhân dân ta.
Đến năm 1945 hơn triệu người Việt Nam chết đói.
Điều này đã làm xúc động giới văn nghệ sĩ, Kim Lân đã đóng góp thành công một
truyện ngắn, đó là “Vợ Nhặt”.
Lúc đầu,truyện có tên là”Xóm ngụ cư”,hòa
bình lập lại 1954, Kim Lân sửa lại in chính thức“Vợ Nhặt”.
II.
Phân tích và chứng minh :
a/ Hoàn
cảnh túng đói , khốn khổ của người dân ngụ cư :
Bức tranh thảm đạm về nạn đói năm
1945. Cái đói đã làm xóm ngụ cư vốn nghèo khổ giờ đây càng xơ xác, thê lương .
Cái đói làm cho bọn trẻ “ngồi ủ rũ dưới những xó tường không buồn nhúc nhích”.Cái đói hành
hạ cả xóm khiến nhiều người “xanh xám như
những bóng ma và nằm ngổn ngang khắp các lều chợ”. Cảnh tang tóc bao trùm
lên xóm ngụ cư “Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ ,
đi làm đồngkhông gặp ba bốn cái thây nằm còng queobên đường. Không khí vẩn lên
mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”ï.Tràng kéo xe thóc tạm
sống qua ngày , nghèo không thể có vợ .Người vợ nhặt lượm từng hạt thóc rơi để có miếng ăn mỗi
ngày
Tâm trạng lo âu, sợ hãi cái đói, cái chết của người
dân . Hình ảnh thê lương của người dân Ngụ Cư là bằng chứng tố cáo tội ác tày
trời của Pháp – Nhật. Chúng đã dẩy nhân dân ta vào vòng cùng khổ, chết
chóc “Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế”.
b/ Người
dân ngụ cư vẫn khao khát vươn lên trên cái chết mà vui ,hi vọng :
Khao khát vươn lên trên cái chết , hướng đến
sự sống .
Người vợ nhặt : Người phụ nữ đói
rách được một bửa no quyết định theo Tràng về làm vợ “cái đói làm con người biến đổi nhanh” . Tội nghiệp hơn chị theo
Tràng về làm vợ không một nghi thức nào .
Tràng : một
con người có ngoại hình xoàng xĩnh , cách nói năng thô kệch, cộc cằn . Nhưng
anh có tấm lòng nhân hậu ,cưu mang người vợ nhặt , giúp người phụ nữ sống chủ
yếu là “trong lòng hắn chỉ còn tình nghĩa
giữa hắn với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở
người đàn ông nghèo khổ ấy”. .
Bà cụ Tứ : vượt lên nỗi xót xa , tủi phận để chấp
nhận nàng dâu .
Tràng cảm thấy vui , thấy mới lạ , bối rối khi có vợ
thấy có trách nhiệm, tình cảm gắn bó với gia đình “Bỗng nhiên hắn thấy thương yêu, gắn bó với caí nhà của hắn lạ lùng”.
Người vợ nhặt đảm đang, vén khéo việc nhà, lo cho
gia đình .
Bà cụ Tứ vui rạng rỡ, quét dọn nhà cửa, hi vọng làm
ăn khá, chuẩn bị bữa ăn sáng chu đáo, phát họa chuyện tương lai “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái
mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”.
Hình ảnh cách mạng xa mà gần, trừu tượng mà cụ thể.
Hình ảnh đó làm cho họ suy nghĩ, gây cho họ xúc động, tạo cho họ niềm tin .
Hiện thực khắc nghiệt vẫn còn đó, tiếng trống thúc thuế vẫn dồn dập, nhưng
trong ý nghĩ của Tràng “Vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm
kéo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm”.
III
Kết Luận:
Vợ Nhặt là
tác phẩm ca ngợi tình yêu cuộc sống ngay giữa mùa chết chóc .
Khẳng định vai trò của cách mạng tháng 8 đối với cuộc đời của bao kiếp
lầm than