Phân tích nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm
cùng tên của Nam Cao để làm
nổi bật bi kịch cự tuyệt quyền làm người
của Chí Phèo
Khi “Đôi lứa
xứng đôi” (tức Chí Phèo) xuất hiện trên văn đàn (1941) thì văn học hiện
thực phê phán đã qua một thời kỳ phát triển rực rỡ. Là người đến muộn, nhưng Nam
Cao đã tự khẳng định mình bằng những khám phá nghệ thuật mới mẻ, đem đến
cho văn học đương thời một tiếng nói riêng đặc sắc.
Hơn năm mươi
năm đã trôi qua, tác phẩm Chí Phèo
ngày thêm được khẳng định,
được khám phá từ những góc độ mới mẻ và chắc chắn sẽ tồn tại vĩnh viễn trong lịch
sử văn học Việt Nam
như một tác phẩm ưu tú.
Dưới một ngọn
bút tài hoa, linh hoạt, giàu biến hoá: khi kể, khi tả, khi sắc lạnh tàn nhẫn,
lúc hài hòa bỡn cợt, lúc trữ tình thắm thiết, khi triết lý sắc bén, khi quằn quại đau
đớn... cuộc sống cứ hiện lên với biết bao tình huống, bao cảnh ngộ, bao chi tiết
sống động. Đôi khi, chỉ một cử chỉ, một lời nói, một phác thảo đơn sơ...
mà hiện lên một
chân dung, lộ nguyên hình một tính cách... Cứ thế, tác phẩm tạo nên một sức lôi
cuốn hấp dẫn từ dòng đầu tiên cho đến dòng kết thúc. Gấp sách lại rồi, ta vẫn bị
ám ảnh không thôi bởi tiếng kêu cứu của một con người bị tước mất quyền làm
người. Một tiếng nói khát khao muốn trở về lương thiện nhưng bị chặn đứng ở mọi nẻo,
và một kết thúc bi thảm đắng cay.
“Bi kịch của một con người bị khước từ quyền làm người” đó là chủ đề xuyên suốt toàn
bộ hình tượng của tác phẩm, được nhà văn đặt ra như một tiếng kêu cứu thảm
thiết, bức xúc, tạo nên giá trị nhân đạo đặc sắc của tác phẩm “Chí Phèo”
Khác với các
nhà văn hiện thực phê phán đương thời, trong tác phẩm Chí Phèo, Nam Cao không
đi sâu miêu tả quá trình đói cơm rách áo, bần cùng khốn khổ... của
người nông dân, mặc dù trong thực tế, đó cũng là một hiện thực phổ biến. Nam Cao trăn
trở, băn khoăn suy ngẫm nhiều hơn về một hiện thực còn thảm khốc, bức xúc
hơn cả đói rét bần cùng, đó là hiện thực về sự tha hóa, một mối đe dọa thảm khốc
trong xã hội đương thời; về nhân phẩm bị vùi dập, chà đạp bởi cả một guồng máy
thống trị bạo tàn. Vấn đề nhân phẩm, vấn đề quyền con người được đặt ra,
chi phối cảm hứng sáng tạo trong nhiều sáng tạo của Nam Cao, trong đó Chí Phèo là tác phẩm thể hiện trực
tiếp, tập trung và mãnh liệt hơn cả.
Mở đầu tác phẩm
là tiếng chửi ngoa ngoắt, thách thức của Chí Phèo đang ngật ngưỡng
trên đường say, đập vào ý thức người đọc một ấn tượng mạnh mẽ. Hãy nghe nhà văn
miêu tả: “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi . Bắt
đầu hắn chửi trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng
chẳng sao: đời là tất cả nhưng cũng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi tất cả làng Vũ
Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại, ai cũng tự nhủ: “Chắc nó trừ mình ra!” .
Không ai lên
tiếng cả. Tức thật! Tức thật! Ờ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế,
hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra
điều. Mẹ kiếp! Thế có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không?
Không biết đứa
chết mẹ nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này? A ha!
Phải đấy, hắn
cứ thế mà chửi, hắn cứ chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra
cái thằng Chí
Phèo”
Đây là tiếng
chửi của một tên say rượu, một tiếng chửi vô thức. Nhưng nhiều khi trong
vô thức, con người lại thể hiện chính mình nhiều hơn khi tỉnh.
Qua tiếng chửi
của Chí Phèo, người đọc cảm thấy như đang đối diện với một con “người –
vật” quái gỡ đơn độc ở tận cùng của sự khổ đau, đang trút lên cuộc đời – tất cả
cuộc đời – tiếng nói hằn học, phẫn uất, đầy thống khổ của mình.
Và cũng qua
tiếng chửi của Chí Phèo, cùng một lúc người đọc nhận ra ba thái độ khác nhau:
thái độ hằn học thù địch của Chí; thái độ khinh miệt dửng dưng của người đời;
thái độ phẫn uất thương cảm của tác giả thể hiện qua giọng văn vừa xót xa vừa tàn
nhẫn.
Đằng sau một
tiếng chửi vô thức của người say, hay rõ hơn, hòa nhập vào tiếng chửi vô thức
ấy, là tiếng nói đầy ý thức nhân văn
của nhà nghệ sĩ, tiếng nói phản kháng mãnh liệt
đối với hiện thực, tiếng nói xót xa
đau đớn trước số phận bi thảm của con người. Và
chính tiếng nói ấy, ngay từ trang đầu tiên đã thực sự đánh thức
tấm lòng nhân
ái nơi người đọc.
Và cứ thế, cuộc
đời Chí Phèo, theo lời kể của nhà văn, hiện lên dần như một cuộn phim bi
thảm. Kể từ khi hắn
là một đứa trẻ trần truồng và xám ngắt bên cái lò gạch cũ bỏ không, cho đến
khi hắn bơ vơ, đi ở cho người này đến người khác rồi làm canh điền cho Lý Kiến và
cuối cùng bị bắt giam vô cớ và tù tội oan uổng... Nhà văn không miêu tả thật
chi tiết quá trình Chí Phèo bị đối xử ra sao trong suốt chặng đường dài
ấy, nhà văn chỉ
tập trung miêu tả cái kết cục, cái hậu quả thảm khốc của nó.
Qua một kết cấu
không theo trình tự thời gian – chủ yếu theo mạch dẫn dắt tâm lý của người kể
chuyện – người đọc hiểu ra: trước kia Chí vốn là người lương thiện.
Chỉ sau khi ở
tù về, hắn mới hoá thành một người khác hẳn, bị tước mất cả nhân tính lẫn nhân
hình với “cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen và rất cong
cong, hai mắt gườm gườm trông gớm chết”. Với vẻ dường như lạnh lùng, nhà văn
viết: “Bây giờ thì hắn đã trở thành người không tuổi rồi. Ba mươi tám hay ba mươi
chín? Bốn mươi hay là ngoài bốn mươi? Cái mặt hắn không trẻ cũng không già; nó
không còn phải là mặt người; nó là mặt một con vật lạ, nhìn mặt những con vật
có bao giờ biết tuổi?”. Sau khi ở tù về, hắn đã trở thành con quỉ dữ của làng Vũ Đại
mà không tự biết. Cuộc đời hắn không có ngày tháng bởi những cơn say triền
miên. “Hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say, đập đầu rạch
mặt, chửi bới doạ nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say, để rồi say nữa, say vô
tận. Chưa bao giờ hắn tỉnh và có lẽ chưa bao giờ hắn tỉnh táo để nhớ rằng hắn có
ở đời. Có lẽ hắn cũng không biết rằng hắn là con quỉ dữ của làng Vũ Đại để tác
quái cho bao nhiêu dân làng. Hắn biết đâu hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát
bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt
của bao nhiêu người lương thiện... Tất cả dân làng đều sợ hắn và tránh mặt hắn
mỗi lần hắn qua”…
Đoạn văn chất
chứa biết bao nỗi thống khổ của một thân phận đã không còn được sống cuộc
sống của một con người. Những năng lực vốn có của con người – năng lực cảm
xúc, ý thức - hầu như bị tiêu huỷ, chỉ còn lại một năng lực đâm chém, phá
phách. Bị đối xử tàn bạo. Chí Phèo đã phản kháng lại bằng sự bạo tàn.
Đó là “sự phẫn
nộ tối tăm” như Lênin đã từng
nói. Trong tác phẩm “Chí Phèo”, Nam Cao đã chỉ
ra rằng Chí Phèo không phải là một ngoại lệ. Cùng với hắn còn có Binh Chức, Năm
Thọ. Đó là kết quả tất yếu của một lôgic: một khi đã có Bá Kiến, Lý Cường, Đội
Tảo… thì ắt là sẽ có Chí Phèo, Năm Thọ, Binh Chức. Đó không phải chỉ là sản
phẩm của sự thống trị mà thậm chí còn là một phương tiện tối cần thiết để thống
trị. “Không có những thằng đầu bò thì lấy ai mà trị những thằng đầu bò”. Chính Bá
Kiến đã rút ra kết luận quan trọng ấy.
Như thế, xã hội
không chỉ đẻ ra Chí Phèo mà còn tiếp tục nuôi dưỡng Chí Phèo, biến
những con người như Chí Phèo thành một công cụ thống trị của chúng.
Nguy cơ và thảm
hại thay, những người nông dân vốn lương thiện, bị huỷ hoại về nhân cách, bị
biến thành công cụ, phương tiện thống trị cho kẻ thù mà không tự biết. Đúng như
nhà phê bình Nguyễn Đăng Mạnh đã nói: “Khi Chí Phèo ngất
ngưởng bước ra
từ những trang sách của Nam Cao thì người ta liền nhận ra rằng đây mới là hiện thân
đầy đủ những gì gọi là khốn khổ tủi nhục nhất của người dân cày ở một nước
thuộc địa: bị giày đạp, bị cào xé, bị huỷ hoại, từ nhân tính đến nhân hình. Chị Dậu
bán chó, bán con, bán sữa nhưng chị còn được là con người. Chí Phèo phải bán cả
diện mạo và linh hồn của mình để thành con quỉ dữ của làng Vũ Đại”.
Chỉ ra hậu quả
thảm khốc của sự bạo tàn, lên tiếng chất vấn và tố cáo gay gắt sự
thống trị bạo tàn, nhà văn đã soi sáng vào quá trình miêu tả một cảm hứng nhân văn
sâu sắc.
Nhưng điều đặc
sắc và đáng quí hơn nữa ở Nam Cao là ngay trong khi miêu tả nhân
vật bị tha hóa đến chỗ tận cùng, Nam Cao vẫn phát hiện trong chiều sâu của nhân
vật bản tính tốt đẹp vốn có, chỉ cần một chút tình thương chạm khẽ vào là có thể
sống dậy mãnh liệt, tha thiết. Sự xuất hiện của nhân vật Thị Nở trong tác phẩm có một
ý nghĩa thật đặc sắc. Con người xấu “ma
chê quỉ hờn” ấy, kỳ diệu thay, lại là
nguồn ánh sáng duy nhất đã rọi vào chốn tăm tối của Chí Phèo, thức tỉnh, gợi dậy
bản tính người nơi Chí Phèo, thắp sáng một trái tim đã bị ngủ mê qua bao ngày tháng
bị vùi dập, hắt hủi. Sau cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với Thị Nở, Chí
Phèo giờ đây đã
nhận ra nguồn ánh sáng ngoài kia rực rỡ biết bao, nghe ra một tiếng chim vui
vẻ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng lao xao của người đi chợ
bán vải… Những âm thanh ấy bao giờ chả có. Nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy.
Chao ôi là buồn, trong cái phút tỉnh táo ấy, Chí Phèo như đã thấy
tuổi già của
hắn, đói rét, ốm đau và cô độc – cái này còn sợ hơn đói rét và ốm đau.
Cũng may Thị Nở
mang bát cháo hành tới. Nếu không, hắn đến khóc được mất… Nhìn
bát cháo bốc khói mà lòng Chí xao xuyến bâng khuâng. “Hắn cảm thấy lòng
thành trẻ con, hắn muốn làm nũng với Thị như làm nũng với mẹ… Ôi sao mà hắn
hiền! Hắn thèm lương thiện – Hắn khát khao làm hòa với mọi người”… Từ một
con quỉ dữ, nhờ Thị Nở, đúng hơn nhờ tình thương của Thị Nở, Chí thực sự được
trở lại làm người, với tất cả những năng lực vốn có của con người: thương yêu, cảm
xúc, ao ước… Té ra, chỉ cần một chút tình thương, dù là tình thương của một
con người dở hơi, bệnh hoạn, thô kệch, xấu xí… cũng đủ để làm
sống dậy cả một
bản tính người nơi Chí. Thế mới biết sức cảm hóa của tình thương kỳ diệu biết
chừng nào!
Bằng chi tiết
này, Nam Cao đã soi vào tác phẩm một ánh sáng nhân đạo thật đẹp đẽ –
Nhà văn như muốn hòa vào nhân vật để cảm thông, chia sẻ những giây phút hạnh
phúc thật hiếm hoi của Chí Phèo…
Nhưng, bi kịch
và đau đớn thay, rốt cuộc thì ngay Thị Nở cũng không thể gắn bó với Chí
Phèo. Một chút hạnh phúc nhỏ nhoi cuối cùng vẫn không đến được với Chí. Và
thật là khắc nghiệt, khi bản tính người nơi Chí trỗi dậy, cũng là lúc Chí hiểu rằng mình
không còn trở về với lương thiện được nữa. Xã hội đã cướp đi của
Chí quyền làm
người và vĩnh viễn không trả lại. Những vết dọc ngang trên mặt, kết quả của bao
nhiêu cơn say, bao nhiêu lần đâm chém, rạch mặt ăn vạ… đã bẻ gãy chiếc cầu nối
Chí với cuộc đời. Và, như Đỗ Kim Hồi nói, “một khi người được nếm trải chút ít
hương vị làm người thì cái xúc cảm người sẽ không thể mất… Đấy là mối bi thảm tột
cùng mà cách giải quyết chỉ có thể là cái chết”.
(Tạp chí Văn học số 3, 1990 trang 32)
Cái chết bi
thảm của Chí Phèo là lời kết tội đanh thép cái xã hội vô nhân đạo, là tiếng
kêu cứu về quyền làm người, cũng là tiếng gọi thảm thiết cấp bách: Hãy cứu lấy con
người! Hãy yêu thương con người!
Đó là giá trị
nhân văn đặc sắc khiến cho tác phẩm “Chí
Phèo” luôn luôn mới.