1. Hoàn
cảnh sáng tác bài TÂY TIẾN – Quang Dũng .
“Tây Tiến” là đơn vị bộ đội được thành lập đầu năm 1947 có nhiệm vụ phối
hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào ,tiêu hao lực lượng địch ở
thượng Lào cũng như miền Tây Bắc bộ VN.
Địa bàn hoạt động khá rộng từ Châu Mai, Châu Mộc sang Sầm Nứa rồi vòng về
Thanh Hóa. Lính Tây Tiến phần đông là sinh viện, học sinh Hà Nội. Quang Dũng là
đại đội trưởng.
Năm 1948, sau một năm hoạt động đoàn bình tây tiến về Hoà Bình thành lập
trung đoàn 52, Quang Dũng chuyển sang đơnvị khác.
Tại đại hội thi đua toàn quân (Phù Lưu Chanh) Quang Dũng viết bài thơ, lúc
đầu có tên “NHỚ TÂY TIẾN” .Bài thơ in lần đầu năm 1949 – đến năm 1957 được in
lại và đổi tên “TÂY TIẾN” .
2. Tìm hiểu bài thơDoanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Có nhớ dáng ngời trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Đoạn 3: Người lính Tây Tiến hào hùng và hào hoa
“áo bào thay chiếu anh về đất”
“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
“Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy”
Đoạn 1 (Từ câu 1 đến câu
14) Thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ - thơ mộng
Quang Dũng là một nghệ sĩ tài hoa nhiều mặt: viết văn
xuôi, làm thơ và cả hội họa. Thơ ông viết ít nhưng lưu được ấn tượng sâu
trong lòng người đọc vì vẻ đẹp lãng mạn, tài hoa. Viết về đề tài người lính
Quang Dũng khá thành công ở bài thơ “Tây Tiến”
“Tây Tiến” thể hiện lối cảm nghĩ riêng đó chính là tấm
lòng Quang Dũng đối với một thời lịch sử đã qua. Cả bài thơ là một nỗi nhớ dài:
Nhớ những miền đất mà tác giả đã từng qua, nhớ những đồng đội thân yêu, nhớ
những kỷ niệm ấm áp tình quân dân kháng chiến. Tất cả những điều ấy được thể
hiện bằng cái nhìn đầy lãng mạn của người lính. Đoạn thơ đầu gồm 14 câu như
những thước phim quay chậm tái hiện địa bàn chiến đấu của người lính Tây
Tiến. Đó là thiên nhiên Tây Tiến, là những người lính Tây Tiến cùng những kỷ
niệm ấm tình quân dân.
Mở đầu đoạn thơ Quang Dũng nhớ ngay đến dòng sông Mã.
Dòng sông ấy hiện lên trong bài thơ nh một nhân vật, chứng kiến mọi gian khổ,
nỗi buồn, niềm vui, mọi chiến công và mọi hy sinh của đoàn binh Tây Tiến. Sông
Mã gắn liền với miền đất đã từng qua, những kỷ niệm từng trải của đoàn quân Tây
Tiến. Nhắc tới sông Mã cũng là nhắc tới núi rừng thiên nhiên Tây Bắc. Nhà thơ
nhớ về những miền đất trong nỗi nhớ “chơi vơi”. “Chơi vơi” là nỗi nhớ không có
hình, không có lượng, không ai cân đong đo đếm được nó lửng lơ mà đầy ắp ám
ảnh tâm trí con người, khiến con người như sống trong cõi mộng. Chữ “chơi
vơi” hiệp vần với chữ “ơi” ở câu thơ trên khiến cho lời thơ thêm vang vọng.
Trong nỗi nhớ “chơi vơi” ấy hiện lên cả một không gian xa
xôi hiểm trở. Tính chất “xa xôi” thể hiện rõ ở một số địa danh: Sài Khao, Mường
Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu. Nghe tên đất đã lạ vì đó là những vùng
sâu, vùng xa của các dân tộc ít người từ Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình. Những địa
danh này đi vào nỗi nhớ của nhà thơ bởi vậy nhớ về Tây Tiến thì cũng chính là
nhớ về những vùng đất heo hút, hiểm trở đầu tiên. Điều này cũng dễ hiểu. Bởi
những người lính Tây Tiến vừa mới ra đi kháng chiến từ một mái trường, một
góc phố nào đó của thủ đô Hà Nội thì ấn tượng sâu đậm nhất về Tây Tiến trong
họ lẽ đương nhiên là những gian khổ, những địa danh nêu trên càng trở nên xa
hơn khi nó gắn liền với hình ảnh “sương lấp”, “đoàn quân mỏi” hiện về “trong
đêm hơi”.
Câu thơ “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm” với điệp từ
“dốc” gối lên nhau cộng với tính từ “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” làm sống dậy con
đường hành quân hiểm trở, gập ghềnh, dài vô tận. Âm điệu câu thơ như cũng
khúc khuỷu như bị cắt đoạn như đường núi khúc khuỷu, có đoạn lên cao chót
vót có đoạn xuống thăm thẳm. Con đường mà người lính Tây Tiến phải trải qua
cao tới mức bóng người in trên những cồn mây, đến mức “súng ngửi trời”
Đây là cách nói thậm xưng thể hiện sự độc đáo của Quang
Dũng. Nếu chỉ thấy súng chạm trời thì ta mới chỉ thấy được cái thế cao của dốc
còn hình ảnh “Súng ngửi trời” hàm chứa một ý nghĩa khác. Đó là vẻ tinh nghịch,
chất lính ngang tàng như thách thức cùng gian khổ của người lính Tây Tiến.
Điều này khiến cho hình ảnh người lính Tây Tiến được nâng cao rõ nét trong
một không gian rộng lớn vời vợi, và đây cũng chính là chất lãng mạn bay bổng
của tâm hồn người lính Tây Tiến, của Quang Dũng. Câu thơ còn gợi cho ta cảm
giác về độ cao, độ sâu không cùng của dốc. Ta bắt gặp ý thơ này ở câu thơ:
“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”. Cả hai câu đều ngắt nhịp 4/4. Thực ra
ý của câu sau điệp lại ý của câu trước nhưng lối điệp vô cùng sáng tạo, khiến
cho người đọc khó phát hiện ra. ý thơ gấp khúc giữa hai chiều cao thăm thẳm,
sâu vòi vọi, dốc tiếp dốc, vực tiếp vực nhấn mạnh địa bàn hoạt động của những
người lính vô cùng khó khăn, hiểm trở, vượt qua những khó khăn, hiểm trở đó
đã là một kỳ tích của những người lính.
Tổng hợp những chi tiết đã phân tích ở trên ta có được
một phần chính về bức tranh của thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, hoang dại, hiểm
trở mà đầy sức hút. Những câu thơ phần lớn là thanh trắc càng gợi cái trúc
trắc, trục trặc, tạo cảm giác cho độc giả về hơi thở nặng nhọc, mệt mỏi của người
lính trên đường hành quân. Giữa những âm tiết toàn thanh trắc ấy chen vào câu
thơ gần cuối đoạn thơ dài man mác toàn thanh bằng: “Nhà ai Pha Luông mưa xa
khơi”. Đây chính là hình ảnh thơ mộng mà hoang dã về thiên nhiên Tây Tiến. Thiết
nghĩ nếu câu thơ này vì lí do nào đó mà không có thì sức hấp dẫn của đoạn thơ
sẽ giảm đi rất nhiều bởi lẽ chính câu thơ tạo nên nét thứ hai cho bức tranh về
thiên nhiên Tây bắc. Thiên nhiên Tây bắc hùng vĩ, hoang sơ, hiểm trở nhưng đầy
thơ mộng. Chất tài hoa của Quang Dũng được thể hiện khá trọn vẹn ở chỗ nhà thơ
nhắc đến mưa rừng mà tạo cảm giác đứng trước biển lại người lên vẻ đẹp của người
lính chân đứng trên dốc cao đầu gội trong mưa lớn. Cứ một nét bút gân guốc lại
xen vào một nét bút mềm mại, trữ tình tạo cho bức tranh về thiên nhiên Tây Tiến
cân đối hài hòa.
Nhắc lại những thử thách khắc nghiệt cũng là để nói đến
sức chịu đựng bền bỉ của con người. Từ đây Quang Dũng vụt nhớ đến hình ảnh
những đồng đội, dù can trường trong dãi dầu nhưng có khi gian khổ đã vượt
quá sức chịu đựng khiến cho người lính đã gục ngã, nhưng gục ngã trên tư thế
hành quân.
“Anh bạn dãi dầu không bước
nữa
Gục trên súng mũ bỏ quên
đời”
Nói đến cái chết mà lời thơ cứ nhẹ như không. Dường như
người lính Tây Tiến chỉ bỏ quên đời một lát rồi lại bừng tỉnh và bước tiếp.
Nói về cái chết mà lời thơ không bi lụy. Đó cũng là một nét trong phong cách
biểu hiện của nhà thơ Quang Dũng. Những ngày chiến đấu bảo vệ biên giới, để
giúp bạn giữa núi rừng Tây Bắc thật lắm gian nan khó nhọc. Những gian nan khó
nhọc còn hằn sâu trong trí nhớ. Quang Dũng không khoa trương tính cách anh
hùng dũng cảm, cũng không nói đến cảnh bách chiến bách thắng. Nhưng sống và
chiến đấu trong một địa bàn hiểm trở dữ dội, hoang dã đã là anh hùng rồi.
Vùng đất xa xôi hiểm trở với những nét dữ dội hoang dã:
Chiều chiều oai linh thác
gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp
trêu người
Cảnh hiểm trở cheo leo nhưng đâu có tĩnh lặng thanh
bình... Với những từ “oai linh”, “gầm thét” thác nước như một sức mạnh thiêng
liêng, đầy quyền uy, đầy đe dọa, và những con hổ đi lang thang hoành hành ngang
dọc coi mình là chúa tể của núi rừng làm cho cảnh rừng núi thêm rùng rợn ghê
sợ.
Đang nói đến cái rùng rợn bí hiểm của rừng già nhà thơ
bỗng nhớ lại một kỷ niệm ấm áp tình quân dân.
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên
khói
Mai Châu mùa em thơm nếp
xôi.
Trong gian khổ thiếu thốn người ta càng nâng niu càng
quí trọng nghĩa tình. Hình ảnh những nồi cơm lên khói, những mùa màng thơm nếp
xôi và đặc biệt là “em” biểu tượng cho người dân Tây Bắc hiện về trong cảm
xúc nhà thơ vừa tự nhiên vừa tinh tế. Sự xuất hiện của những hình ảnh này khiến
cho đoạn kết của khổ thơ có sức bay bổng. Đoạn thơ ấm lại trong tình quân dân
mặn nồng. Hai câu cuối gieo vào tâm hồn độc giả một cảm xúc ấm nóng. Cái ấm
nóng của tình người. Đây chính là chất lãng mạn bay bổng của đoạn thơ và nó
như một nét vẽ tươi sáng của bức tranh.
Đoạn thơ là sự phối kết hợp hài hòa giữa hai bút pháp
hiện thực và lãng mạn. Cả đoạn thơ như một bức tranh thủy mặc cổ điển được
phác thảo theo lối tạo hình phương đông. Quang Dũng là một hoạ sĩ. Ông có tài
chấm phá trong việc phác thảo cảnh vật. Quang Dũng đã xây một đài kỷ niệm trong
thơ cho thiên nhiên Tây Bắc và người lính Tây Tiến.
Đoạn 2. Con người Tây Bắc duyên dáng và tài hoa
Cả đoạn thơ là bức tranh thiên nhiên diễm lệ có sức hòa
hợp diệu kỳ giữa thiên nhiên và con người. Cảnh trí miền Tây ở khổ thơ dường
như được tạo hình theo thi pháp truyền thống: “Thi trung hữu hoạ, thi trung
hữu nhạc”. Một miền Tây thơ mộng thi vị giàu sức cuốn hút. Đoạn thơ thứ 2 này được
xem là đoạn thơ tiêu biểu cho bút pháp nghệ thuật của Quang Dũng. Câu mở đầu
đoạn tạo cảm giác đột ngột bừng sáng:
“Bừng lên” vừa đột ngột, bất ngờ vừa thú vị. Cả cảnh vật
và lòng người đều bừng sáng lên. Chất hào hoa trong bút pháp thể hiện của
Quang Dũng đã bộc lộ ngay từ câu thơ đầu. Hai cụm từ “bừng lên” “hội đuốc hoa”
thể hiện sự tinh tế trong việc sử dụng từ ngữ của Quang Dũng. Hai cụm từ này
vừa có tính tả thực vừa đậm chất lãng mạn. “Bừng lên” vừa có nghĩa bừng sáng
lung linh vừa như bừng tỉnh.
“Hội đuốc hoa” đây là cảnh thực. Đêm liên hoan văn nghệ
diễn ra dưới những cánh rừng, người đến dự đều cầm trên tay ngọn đuốc, gió
thổi làm những ngọn đuốc lung linh phát ra những tia lửa. Cảnh tượng này trong
đêm quả thật nhìn như hoa đuốc. Cảm nhận của Quang Dũng vừa tinh tế vừa lãng
mạn, câu thơ gợi sức liên tưởng, tưởng tượng cho người đọc. Trên cái nền
không gian ấy “em” xuất hiện.”Em” xuất hiện lập tức trở thành trung điểm của
mọi điểm nhìn.
“Kìa em” lời chào đón đầy ngạc nhiên sung sướng đến ngỡ
ngàng. Lời chào đón mang tính phát hiện. Em lạ mà quen, quen mà lạ. Quang Dũng
phát hiện ra vẻ đẹp rực rỡ của cô gái bằng cả niềm yêu, niềm say đến cảm phục.
Yêu say từ vóc dáng đến trang phục. Chính trang phục truyền thống đậm đà bản
sắc văn hóa của các thiếu nữ Tây Bắc càng tôn vinh lên vẻ đẹp của họ Quang Dũng
không khỏi không thán phục đến ngạc nhiên trước vẻ đẹp ấy. Em trở thành hạt
nhân của bức tranh với vẻ đẹp xứ lạ phương xa. Câu thơ thứ ba xuất hiện lập
tức khổ thơ như tràn đầy âm nhạc.
Khèn lên man điệu nàng e
ấp.
Những âm thanh phát ra từ nhạc cụ của đồng bào Tây Bắc
đối với người lính Tây Tiến vừa lạ vừa có vẻ hoang dại mang tính sơ khai mà đậm bản sắc văn hóa dân
tộc. Chính cái lạ ấy làm đắm say tâm hồn những chàng trai Tây Tiến gốc Hà Nội
hào hoa. Từ “man điệu” mà Quang Dũng sử dụng ở đây cũng rất tài hoa. Ngời đọc
như được chứng kiến những vũ khúc hoang sơ của văn hóa Âu Lạc. Vũ khúc ấy hòa
với vũ điệu Em duyên dáng, e ấp, tình tứ. Ta chú ý tác giả sử dụng từ : Ban đầu
là “em” tiếp đến là “nàng” rồi sau lại là “em”. Từ cách sử dụng ấy ta cảm nhận
được em như một nàng tiên kiều diễm và ta như lạc vào cõi thần tiên với
không khí mê say đến ngây ngất. Chính trong không khí của âm nhạc, vũ điệu ấy
đã chắp cánh cho tâm hồn những người lính Tây Tiến thực sự ngất ngây trước người
và cảnh.
Sẽ rất thiếu sót nếu như chúng ta dừng lại ở đây. Bởi lẽ
bốn câu sau của đoạn thơ mới thực sự thi vị. Cả bốn câu là cảnh sắc Tây Bắc gợi
cảm giác mênh mang, huyền ảo:
Người đi Châu Mộc chiều
sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến
bờ
Có nhớ dáng người trên
độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa
đong đưa.
Một không gian bảng lảng khói sương như trong cõi mộng
cứ thế hiện ra. Cái thực của khí trời Tây Bắc, cái mộng của không khí bảng lảng
sương khói hiện lên như một miền cổ tích. Ta nhớ rằng Quang Dũng là một họa
sĩ bởi vậy đoạn thơ đậm màu sắc hội họa. Nét bút phác thảo của Quang Dũng thật
là tài hoa. Chỉ một vài nét chấm phá vậy mà cái hồn của cảnh vật và con người
hiện lên thật sinh động đầy sức cuốn hút.
Không gian dòng sông buổi chiều giăng mắc một màu sương,
sông nước bến bờ hoang dại như một bờ tiền sử. “Hồn lau” những cây lau không
còn vô tri vô giác mà có linh hồn. Phải là một hồn thơ nhạy cảm, tinh tế, tài
hoa và lãng mạn mới cảm nhận được hồn lau đang dăng mắc dọc nẻo bến bờ. Không
gian nên thơ ấy làm nền cho người thơ xuất hiện:
Câu thơ không tả mà gợi, gợi cái dáng mềm mại uyển chuyển
của cô gái trên chiếc thuyền độc mộc. Cảnh rất thơ và người cũng rất tình. Bởi
vậy tác giả như ngây ngất đắm say trước cảnh và người. ở đây cảnh như làm
duyên với người.
Duyên dáng đến độ và tình tứ cũng hết lời: Bông hoa rừng
cũng đong đưa làm duyên với người. Cảnh và người hòa quyện đồng điệu, tình tứ
đến mê say trong cái nhìn lãng mạn của Quang Dũng. Ta có cảm nhận đây là thế
giới của cõi mộng, cõi mơ, cõi thơ và cõi nhạc. Thơ và nhạc là hai yếu tố tạo
nên bức tranh Tây Bắc nên thơ, mĩ lệ. Ai nói rằng Tây Bắc là xứ rừng thiêng nước
độc xin hãy một lần để cho tâm hồn mình lắng lại để chất thơ Tây Bắc ngấm vào
hồn.
Đoạn thơ bộc lộ chất tài hoa, chất lãng mạn của Quang
Dũng đến tuyệt vời. Cảm ơn nhà thơ đã cho ta một chuyến hành trình về với Tây
Bắc thơ mộng để khám phá Tây Bắc và yêu Tây Bắc.
Quang Dũng đã dựng bức tượng đài về người lính vô danh
trong khổ thơ thứ ba của bài thơ Tây
Tiến. Ta có thể xem khổ thơ thứ ba này là những nét bút cuối cùng hoàn thiện
bức tượng đài về chân dung người lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa. Chân dung
người lính hiện lên ở khổ thơ thứ 3 có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa vẻ đẹp tâm
hồn, lý tưởng chiến đấu và phẩm chất hy sinh anh dũng. Có thể nói cả bài thơ
là một tượng đài đầy màu sắc bi tráng về một đoàn quân trên một nền cảnh khác
thường.
Chân dung đoàn binh Tây Tiến được chạm khắc bằng nét bút
vừa hiện thực vừa lãng mạn. Các chi tiết như lấy từ đời sống hiện thực và khúc
xạ qua tâm hồn thơ Quang Dũng để rồi sau đó hiện lên trên trang thơ đầy sức hấp
dẫn. Dọc theo hành trình, vẻ đẹp hào hùng kiêu dũng cứ lấp lánh dần lên, đến
khi người lính Tây Tiến đối mặt với dịch bệnh, đối mặt với cái chết thì nó
thật chói người, nét nào cũng sắc sảo lạ lùng và đầy lãng mạn:
Tây Tiến đoàn binh không
mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai
hùm.
Chữ dùng của Quang Dũng ở đây thật lạ. Nếu mở đầu đoạn
thơ tác giả dùng từ “Đoàn quân” thì ở đây tác giả dùng “Đoàn binh”. Cũng đoàn
quân ấy thôi nhưng khi dùng “Đoàn binh” thì gợi hình ảnh đoàn chiến binh có vũ
khí, có khí thế xung trận át đi vẻ ốm yếu của bệnh tật. Ba chữ “không mọc tóc”
là đảo thế bị động thành chủ động. Không còn đoàn quân bị sốt rét rừng lâm tiều
tuỵ đi rụng hết cả tóc. Giọng điệu của câu thơ cứ y như là họ cố tình không
mọc tóc vậy. Nghe ngang tàng kiêu bạc và thấy rõ sự bốc tếu rất lính tráng.
Các chi tiết “không mọc tóc, quân xanh màu lá” diễn tả
cái gian khổ khác thường của cuộc đời người lính trên một địa bàn hoạt động
đặc biệt. Di chứng của những trận sốt rét rừng triền miên là “tóc không mọc” da
xanh tái. Nhưng đối lập với ngoại hình tiều tụy ấy là sức mạnh phi thường tự
bên trong phát ra từ tư thế “dữ oai hùm”. Với nghệ thuật tương phản chỉ 2
dòng thơ Quang Dũng làm nổi bật vẻ khác thường của đoàn quân Tây Tiến. Họ hiện
lên như hình ảnh tráng sĩ trượng phu một thuở qua hai câu tiếp:
Mắt trừng gửi mộng qua
biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều
thơm
“Mắt trừng” biểu thị sự dồn nén căm uất đến cao độ như có
khả năng thiêu đốt quân thù qua ánh sáng của đôi mắt. Hình ảnh thơ làm nổi bật
ý chí của đoàn binh Tây Tiến. ở đây người lính Tây Tiến được đề cập đến với
tất cả thực trạng mệt mỏi, vất vả qua các từ “không mọc tóc”, “quân xanh màu
lá”. Chính từ thực trạng này mà chân dung người lính sinh động chân thực. Thế
nhưng vượt lên trên khó khăn thiếu thốn, tâm hồn người lính vẫn cất cánh
“Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Câu thơ ánh lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính
Tây Tiến. Ban ngày “Mắt trừng gửi mộng” giấc mộng chinh phu hướng về phía trận
mạc nhưng khi bom đạn yên rồi giấc mộng ấy lại hướng về phía sau cũng là hướng
về phía trớc, phía tương lai hẹn ước. Một ngày về trong chiến thắng để nối
lại giấc mơ xưa. ý chí thì mãnh liệt, tình cảm thì say đắm. Hai nét đẹp hài hòa
trong tính cách của những chàng trai Tây Tiến.
Quang Dũng đã dùng hình ảnh đối lập: một bên là nấm mồ,
một bên là ý chí của những người chiến binh:
Rải rác biên cương mồ
viễn xứ
Chiến trường đi chẳng
tiếc đời xanh
áo bào thay chiếu anh về
đất
Sông Mã gần lên khúc độc
hành.
“Mồ viễn xứ” là những nấm mồ ở những nơi xa vắng hoang
lạnh. Những nấm mồ rải rác trên đường hành quân, nhng không thể cản được ý
chí quyết ra đi của người lính. Câu thơ sau chính là câu trả lời dứt khoát của
những con người đứng cao hơn cái chết:
Chiến trường đi chẳng
tiếc đời xanh.
Chính tình yêu quê hương đất nước sâu nặng đã giúp người
lính coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Khi cần họ sẵn sàng hy sinh cho nghĩa lớn
một cách thanh thản bình yên như giấc ngủ quên. Câu thơ vang lên như một lời thề đúng là cái chết của bậc trượng
phu
Nếu như người tráng sĩ phong kiến thuở trước coi da
ngựa bọc thây là lí tưởng thì anh bộ đội cụ Hồ ngày nay chiến đấu hi sinh vì Tổ
quốc một cách tự nhiên thầm lặng. Hình ảnh “áo bào” làm tăng không khí cổ kính
trang trọng cho cái chết của người lính. Hai chữ “áo bào” lấy từ văn học cổ
tái tạo vẻ đẹp của một tráng sĩ và nó làm mờ đi thực tại thiếu thốn gian khổ ở
chiến trường. Nó cũng gợi được hào khí của chí trai “thời loạn sẵn sàng chết
giữa sa trường lấy da ngựa bọc thây. Chữ “về” nói được thái độ nhẹ nhõm, ngạo
nghễ của người tráng sĩ đi vào cái chết “Anh về đất” là hình ảnh đầy sức mạnh
ngợi ca. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ thiêng liêng, người lính Tây Tiến trở về
trong niềm chở che của đất mẹ quê hương, của đồng
đội. Trở về với nơi đã sinh dưỡng ra mình. Trước những cái chết cao cả ở địa
bàn xa xôi hẻo lánh sông Mã là nhân vật chứng kiến và tiễn đưa.
Mở đầu bài thơ ta gặp ngay hình ảnh sông Mã, con sông ấy
gắn liền với lịch sử đoàn quân Tây Tiến. Sông Mã chứng kiến mọi gian khổ, mọi
chiến công và giờ đây lại chứng kiến sự hy sinh của
người lính. Đoạn thơ kết thúc bằng khúc ca bi tráng của sông Mã.
Dòng sông Mã là chứng nhân của một thời kỳ hào hùng,
chứng kiến cái chết của người tráng sĩ, nó gầm lên khúc độc
hành bi phẫn, làm rung động cả một chốn hoang sơ. Câu thơ có cái không khí
chiến trận của bản anh hùng ca thời cổ. Câu thơ đề cập đến mất mát đau thương
mà vẫn hùng tráng.
Bốn câu kết:
Bốn câu thơ kết thúc được viết như những dòng chữ ghi
vào mộ chí. Những dòng sông ấy cũng chính là lời thề của các chiến sĩ vệ quốc
quân.
“Mùa xuân” có thể được dùng nhiều nghĩa: thời điểm thành
lập đoàn quân Tây Tiến (mùa xuân 1947), mùa xuân của đất nước, mùa xuân (tuổi
thanh xuân) của đời các chiến sĩ.
Hình ảnh “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”, “chẳng về xuôi”
bỏ mình trên đường hành quân “Hồn về Sầm Nứa”: chí nguyện của các chiến sĩ là
sang nước bạn hợp đồng tác chiến với quân tình nguyện Lào chống thực dân Pháp,
thực hiện lý tưởng đến cùng. Bởi vậy dù đã ngã xuống trên đường hành quân hồn
(tinh thần của các anh) vẫn đi cùng với đồng đội, vẫn sống trong lòng đồng đội:
Vang vọng âm hửơng văn tế của Nguyễn Đình Chiểu: “Sống đánh giặc, thác cũng
đánh giặc”.