ĐÂY MÙA THU TỚI – Xuân Diệu
1/ Cảm giác chung của bài thơ là buồn.
Buồn vì hàng liễu rũ. Buồn vì cái lạnh len lỏi đây đây gợi nỗi cô đơn, buồn vì
có sự chia lìa, tan tác từ hoa cỏ, chim muông tới con người. Buồn vì có một cái
gì như là nỗi nhớ nhung ngẩn ngơ, phảng phất ở không gian và lòng người.
Hồi ấy, khi bài thơ ra đời
(rút trong tập Thơ thơ – 1938) mùa thu là mùa buồn, tuy thường là nỗi buồn man
mác có cái vẻ đẹp và cái nên thơ riêng của nó.
Thực ra đây là một cảm hứng
rất tự nhiên và có tính truyền thống về mùa thu của thơ ca nhân loại (Nguyễn
Du, Nguyễn Khuyến, Tản Đà... cũng như Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị...). Bài Đây mùa thu tới cũng nằm trong
truyền thống. Nhưng cảnh thu của thơ Xuân Diệu có cái mới , cái riêng của nó.
Ấy là chất trẻ trung tươi mới được phát hiện qua con mắt “Xanh non” của tác
giả, là sức sống của tuổi trẻ và tình yêu, là cái cảm giác cô đơn “run rẩy” của
cái tôi cá nhân biểu hiện niềm khao khát giao cảm với đời.
Cảm giác chung, linh hồn chung
ấy của bài thơ đã được thể hiện cụ thể qua các chi tiết, các câu thơ, đoạn thơ
của tác phẩm.
2/
Đoạn một:
Trong thi ca truyền thống phương Đông,
oanh vàng liễu biếc thường để nói mùa xuân, tuổi trẻ và tình yêu. Người ta dành
sen tàn, lá ngô đồng rụng, cúc nở hoa để diễn tả mùa thu. Xuân Diệu lại thấy tín
hiệu của mùa thu trước hết nơi những hàng liễu rũ bên hồ.
Trong thơ Xuân Diệu, dường như
đầu mối của mọi so sánh liên tưởng là những cô gái đẹp. Vậy thì những hàng liễu
bên hồ, cành mềm, lá mướt dài rũ xuống thướt tha, có thể tưởng tượng là những
thiếu nữ đứng cúi đầu cho những làn dài tóc dài đổ xuống song song... Là mái
tóc mà cũng là những dòng lệ (lệ liễu).
Những dòng lệ tuôn rơi hàng nối hàng cùng
chiều với những áng tóc.
Vậy là mùa thu của Xuân Diệu tuy buồn mà
vẫn đẹp, và nhất là vẫn trẻ trung. Ở hai câu đầu của đoạn thơ, nhà thơ khai
thác triệt để thủ pháp láy âm để tạo nên giọng điệu buồn, đồng thời gợi tả cái
dáng liễu (hay những áng tóc dài) buông xuống, rủ mãi xuống. Những “nàng liễu”
đứng chịu tang một mùa hè rực rỡ vừa đi qua chăng?
Tin thu tới trên hàng liễu, nhà thơ như
khẽ reo lên “Đây mùa thu tới – mùa thu
tới”. Đàng sau tiếng reo thầm, ta hình dung cặp mắt long lanh, trẻ trung
của nhà thơ. Mùa thu của Xuân Diệu không gợi sự tàn tạ, mà như khoác bộ áo mới
tuy không rực rỡ, nhưng mà đẹp và thật là thơ
mộng rất phù hợp với mùa thu: “Với áo
mơ phai dệt lá vàng”.
Ở những dòng đầu, Xuân Diệu đã vẽ lên một bức tranh thu đẹp, thơ mộng, thấm một
nỗi buồn từ cỏ cây đến lòng người. Trong con mắt của thi nhân, có vẻ như mùa
thu vừa mới đến đã mang vẻ tang thương:
Ở những dòng đầu, Xuân Diệu đã vẽ lên một bức tranh thu đẹp, thơ mộng, thấm một
nỗi buồn từ cỏ cây đến lòng người. Trong con mắt của thi nhân, có vẻ như mùa
thu vừa mới đến đã mang vẻ tang thương:
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng.
Buồn đấy, nhưng tha thướt, yêu kiều, buồn mà vẫn đẹp. Xuân Diệu đã khéo léo sử
dụng thủ pháp láy vần, láy phụ âm, phối vần trong từng câu thơ và giữa các câu
thơ: đìu hiu - chịu, tang –
ngàn – hàng, buồn – buông - xuống… tạo nên một âm điệu phù hợp với tâm
trạng, với nỗi buồn mà thân liễu mảnh mai mang trong mình.
Trước Đây mùa thu tới đã có nhiều lần các thi nhân đưa
mùa thu vào thơ ca, mùa thu trong thơ Nguyễn Khuyến, xa hơn nữa là trong thơ Đỗ
Phủ… song với Xuân Diệu mùa thu mang một nét riêng khác hẳn cả với thu trong
thơ Lưu Trọng Lư. Xuân Diệu nhấn mạnh một thông báo về mùa thu bằng tiếng reo
vui:
Buồn đấy, nhưng tha thướt, yêu kiều, buồn mà vẫn đẹp. Xuân Diệu đã khéo léo sử
dụng thủ pháp láy vần, láy phụ âm, phối vần trong từng câu thơ và giữa các câu
thơ: đìu hiu - chịu, tang –
ngàn – hàng, buồn – buông - xuống… tạo nên một âm điệu phù hợp với tâm
trạng, với nỗi buồn mà thân liễu mảnh mai mang trong mình.
Trước Đây mùa thu tới đã có nhiều lần các thi nhân đưa
mùa thu vào thơ ca, mùa thu trong thơ Nguyễn Khuyến, xa hơn nữa là trong thơ Đỗ
Phủ… song với Xuân Diệu mùa thu mang một nét riêng khác hẳn cả với thu trong
thơ Lưu Trọng Lư. Xuân Diệu nhấn mạnh một thông báo về mùa thu bằng tiếng reo
vui:
Trước Đây mùa thu tới đã có nhiều lần các thi nhân đưa
mùa thu vào thơ ca, mùa thu trong thơ Nguyễn Khuyến, xa hơn nữa là trong thơ Đỗ
Phủ… song với Xuân Diệu mùa thu mang một nét riêng khác hẳn cả với thu trong
thơ Lưu Trọng Lư. Xuân Diệu nhấn mạnh một thông báo về mùa thu bằng tiếng reo
vui:
Với áo mơ phai dệt lá vàng.
Xuân Diệu rất ám ảnh với bước đi của thời gian, nhà thơ ngỡ ngàng khi hè qua
thu tới, thu tới rồi thu sẽ đi, buồn chứ sao. Màu vàng tượng trưng cho mùa thu.
Thu đến lá vàng rụng xuống tạo nên khung cảnh tiêu điều, vắng vẻ. Lưu Trọng Lư
trong Tiếng thu đã viết rất hay:
Đạp lên lá vàng khô.
Nhưng màu mơ phai thì là một sáng tạo của thi nhân. Nhà
thơ Xuân Diệu đã cảm nhận thật tinh tế về sắc áo ấy. Mơ phai là cái khoảnh khắc chuyển giao giữa hè
và thu. Nắng đã phai bớt, nhạt bớt nhưng trời chưa lạnh. Bao lá vàng rơi dệt
nên bức tranh mà thu, mùa thu đến báo hiệu sự chia li, rời bỏ, cô đơn.
Nhân vật trữ tình trong bài thơ có lẽ cũng là một linh hông cô đơn cho nên đặc
biệt nhạy cảm với những dấu hiệu của sự rời bỏ, li tán:
Nhân vật trữ tình trong bài thơ có lẽ cũng là một linh hông cô đơn cho nên đặc
biệt nhạy cảm với những dấu hiệu của sự rời bỏ, li tán:
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rủa màu canh
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.
Một bức tranh thu héo úa, tàn phai là có sức
quyến rũ lạ kì.
Hơn một là bao nhiêu? Như
Hoài Thanh trong
Thi nhân Việt
Nam đã biết
Xuân Diệu quá Tây, Xuân Diệu chịu ảnh hưởng của thơ tượng
trưng của Pháp.
Hơn một chỉ là cách nói tượng trưng mà thôi.
Mùa thu đến làm cho hoa rụng cành, sắc đỏ ngự trị, cây gầy guộc, mỏng manh… cảm
giác buồn hiu hắt. Buồn phụ âm
r như gợi tả sự sống mong manh, yếu ớt
của những chiếc lá sắp rụng, sắp tàn, không cưỡng lại được:
run rẩy, rung rinh.
Sắc đỏ rủa mùa xanh là
sáng tạo mới của nhà thơ. Nó có giá trị biểu đạt rất đặc sắc, đồng thời cũng
thể hiện cái tôi Xuân Diệu.
Quả thật, như Nguyễn Du trong
Truyện
Kiều đã có câu rất hay:
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
Trong tâm trạng cô đơn của mình, thi nhân đã thấy
Trăng tự ngẩn ngơ, một trạng
thái ngẩn ngơ triền miên không dứt. Và núi cũng chìm trong sương lạnh nhạt
nhoà. Các giác quan như mở ra tinh tế hơn, nhạy bén hơn.
Hơn một là bao nhiêu? Như
Hoài Thanh trong
Thi nhân Việt
Nam đã biết
Xuân Diệu quá Tây, Xuân Diệu chịu ảnh hưởng của thơ tượng
trưng của Pháp.
Hơn một chỉ là cách nói tượng trưng mà thôi.
Mùa thu đến làm cho hoa rụng cành, sắc đỏ ngự trị, cây gầy guộc, mỏng manh… cảm
giác buồn hiu hắt. Buồn phụ âm
r như gợi tả sự sống mong manh, yếu ớt
của những chiếc lá sắp rụng, sắp tàn, không cưỡng lại được:
run rẩy, rung rinh.
Sắc đỏ rủa mùa xanh là
sáng tạo mới của nhà thơ. Nó có giá trị biểu đạt rất đặc sắc, đồng thời cũng
thể hiện cái tôi Xuân Diệu.
Quả thật, như Nguyễn Du trong
Truyện
Kiều đã có câu rất hay:
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
Trong tâm trạng cô đơn của mình, thi nhân đã thấy
Trăng tự ngẩn ngơ, một trạng
thái ngẩn ngơ triền miên không dứt. Và núi cũng chìm trong sương lạnh nhạt
nhoà. Các giác quan như mở ra tinh tế hơn, nhạy bén hơn.
Mùa thu đến làm cho hoa rụng cành, sắc đỏ ngự trị, cây gầy guộc, mỏng manh… cảm
giác buồn hiu hắt. Buồn phụ âm
r như gợi tả sự sống mong manh, yếu ớt
của những chiếc lá sắp rụng, sắp tàn, không cưỡng lại được:
run rẩy, rung rinh.
Sắc đỏ rủa mùa xanh là
sáng tạo mới của nhà thơ. Nó có giá trị biểu đạt rất đặc sắc, đồng thời cũng
thể hiện cái tôi Xuân Diệu.
Quả thật, như Nguyễn Du trong
Truyện
Kiều đã có câu rất hay:
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
Trong tâm trạng cô đơn của mình, thi nhân đã thấy
Trăng tự ngẩn ngơ, một trạng
thái ngẩn ngơ triền miên không dứt. Và núi cũng chìm trong sương lạnh nhạt
nhoà. Các giác quan như mở ra tinh tế hơn, nhạy bén hơn.
Sắc đỏ rủa mùa xanh là
sáng tạo mới của nhà thơ. Nó có giá trị biểu đạt rất đặc sắc, đồng thời cũng
thể hiện cái tôi Xuân Diệu.
Quả thật, như Nguyễn Du trong
Truyện
Kiều đã có câu rất hay:
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
Trong tâm trạng cô đơn của mình, thi nhân đã thấy
Trăng tự ngẩn ngơ, một trạng
thái ngẩn ngơ triền miên không dứt. Và núi cũng chìm trong sương lạnh nhạt
nhoà. Các giác quan như mở ra tinh tế hơn, nhạy bén hơn.
Quả thật, như Nguyễn Du trong
Truyện
Kiều đã có câu rất hay:
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
Trong tâm trạng cô đơn của mình, thi nhân đã thấy
Trăng tự ngẩn ngơ, một trạng
thái ngẩn ngơ triền miên không dứt. Và núi cũng chìm trong sương lạnh nhạt
nhoà. Các giác quan như mở ra tinh tế hơn, nhạy bén hơn.
Một sự chuyển đối giữa xúc giác với thính giác.
Đối với Xuân Diệu dường như thời gian đang tàn phá cướp đoạt sự sống. Ông như
quyết đấu với thời gian, với sự tàn phai, với cái chết. Chính vì vậy, ông đã có
nhiều cống hiến lớn lao cho thi ca và cho cuộc đời. Mở đầu bằng hình ảnh
rặng liễu - thiếu nữ, để khi khép lại cũng vẫn
là hình ảnh của thiếu nữ,
Tựa
cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì. Tất cả tạo nên một sự hô ứng đặc sắc: hồn thu của
thiên nhiên, đất trời đã đi vào hồn người.
Nỗi cô đơn quạnh vắng của lòng người trước ngoại cảnh trải dài trong một bức
tranh thiên nhiên buồn mà nên thơ nên họa. Với cảm thức mạnh mẽ về thời gian,
thi nhân bộc lộ niềm tiếc nuối, lòng yêu mến, gắn bó với sự sống một trái tim
luôn
khao khát giao cảm với
đời.
Xuân Diệu đã góp vào hồn thu muôn thuở cái tôi cá nhân tài hoa và đa tình của
mình. Cảnh thu đẹp, có sức gợi là lại man mác buồn, cái buồn li tán, chia lìa.
Đó cũng chỉ bởi một nỗi: lòng thi nhân buồn. Cái buồn chung của Thơ mới, của
thời đại, của lòng người. Có thể nói với
Đây
mùa thu tới nhà thơ Xuân Diệu
đã tạo nên một
điệu hồn Thơ
mới đặc sắc.
3/ Ở hai đoạn hai và ba, nhà thơ chủ yếu
cảm nhận mùa thu bằng xúc giác: sương lạnh, gió lạnh. Có lẽ cái lạnh không chỉ
đến với nhà thơ bằng xúc giác.
Ông đem đến thêm cho cảnh thu
cái run rẩy của tâm hồn mình nữa chăng? Một tâm hồn rất nhạy cảm với thân phận
của hoa tàn, lá rụng, những nhánh cây gầy guộc trơ trụi... Chúng đang rét run
lên trước gió thu! Lại một thành công nữa trong thủ pháp
láy âm “những luồng run rẩy rung rinh lá”.
Cái rét càng dễ cảm thấy ở nơi
trống vắng, nhất là cảnh trống vắng ở những bến đò. Bến đò là nơi lộng gió. Bến
đò lại là nơi tụ hội đông vui. Thu về, gió lạnh, người ta cũng ngại qua lại bên
sông. Xuân Diệu đã diển tả cái lạnh bằng một câu thơ đặc sắc “Đã nghe rét mướt luồn trong gió”. Một
chữ “luồn” khiến cái rét như
được vật chất hóa hơn, có sự tiếp xúc da thịt cụ thể hơn.
4/ Đoạn bốn
Nguyễn Du nói “Người buồn cảnh
có vui đâu bao giờ”. Ở đây người cũng buồn mà cảnh cũng buồn. Buồn nhất là sự
trống vắng và cảnh chia lìa. Cả bài thơ gợi ý này, nhưng đến đoạn cuối nhà thơ
mới nói trực tiếp như muốn đưa ra một kết luận chăng:
Mây vẫn từng
không chim bay đi
Khi trời u uất hận chia li
Tuy
nhiên cảm giác về mùa thu, tâm sự về mùa thu là một cái gì mông lung, làm sao
có thể kết luận thành một ý nào rõ rệt. Vậy thì tốt nhất là nói lửng lơ:
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì?
Lời
kết luận nằm ở trong lòng những thiếu nữ đứng tựa cửa bâng khuâng.Nét mặt các
cô thì buồn và cặp mắt các cô thì nhìn ra xa, nghĩa là không nhìn mộtcái gì cụ thể
– chắc hẳn là đang nhìn vào bên trong lòng mình để lắng nghe nhữngcảm giác buồn
nhớ mông lung khi mùa thu tới. Lời kết luận không nói gì rõ rệt
nhưng lại gợi
mở rất nhiều cảm nghĩ cho người đọc.Trong
tập Trường ca, Xuân Diệu từng
viết: Trời muốn lạnh nên người tacần nhau hơn.
Và người nào chỉ có một thân thì cần một người khác (...) Thu, người ta vì lạnh
sắp đến mà rất cần đôi, cho nên không gian đầy những lời nhớ nhung,những hồn cô
đơn thảo ra những tiếng thở dài để gọi nhau”. Đó
phải chăng cũng là tâm trạng của tác giả
Đây mùa thu tới và của những thiếu
nữ trong bài thơ này chăng?
----------------------------------------------------------------------
Bài làm
Xuân Diệu là nhà thơ xuất sắc của phong trào Thơ mới (1932-1945). Thơ Xuân Diệu lúc này bộc lộ lòng yêu cuộc sống, yêu người và khát khao hạnh phúc. Ông là một hồn thơ nhạy cảm với đời, với thiên nhiên. Bài thơ Đây mùa thu tới của nhà thơ Xuân Diệu chính là vẻ đẹp độc đáo của một điệu hồn thơ mới.
Ở những dòng đầu, Xuân Diệu đã vẽ lên một bức tranh thu đẹp, thơ mộng, thấm một nỗi buồn từ cỏ cây đến lòng người. Trong con mắt của thi nhân, có vẻ như mùa thu vừa mới đến đã mang vẻ tang thương:
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng.
Không phải đến Xuân Diệu, liễu mới xuất hiện trong thơ, liễu đã có nhiều trong thơ của ta, cũng như của Tàu. Nhưng thơ xưa liễu chỉ là liễu, còn đến Xuân Diệu liễu không chỉ là liễu mà còn là người. Tơ liễu buông rủ khiến cho nhà thơ ngỡ như đó là mái tóc dài buông xoã của người thiếu nữ cùng những dòng lệ nối nhau tuôn rơi. Đìu hiu là một không gian vắng vẻ, buồn. Rặng liễu như là chịu tang vậy, nhưng chiu tang ai? Chịu tang việc gì? Phải chẳng mùa thu đang tới lấn lướt đi cái rực rỡ chói chang của mùa hè. Chịu tang mùa hè đã mất?
Buồn đấy, nhưng tha thướt, yêu kiều, buồn mà vẫn đẹp. Xuân Diệu đã khéo léo sử dụng thủ pháp láy vần, láy phụ âm, phối vần trong từng câu thơ và giữa các câu thơ: đìu hiu - chịu, tang – ngàn – hàng, buồn – buông - xuống… tạo nên một âm điệu phù hợp với tâm trạng, với nỗi buồn mà thân liễu mảnh mai mang trong mình.
Trước Đây mùa thu tới đã có nhiều lần các thi nhân đưa mùa thu vào thơ ca, mùa thu trong thơ Nguyễn Khuyến, xa hơn nữa là trong thơ Đỗ Phủ… song với Xuân Diệu mùa thu mang một nét riêng khác hẳn cả với thu trong thơ Lưu Trọng Lư. Xuân Diệu nhấn mạnh một thông báo về mùa thu bằng tiếng reo vui:
Đây mùa thu tới – mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.
Xuân Diệu rất ám ảnh với bước đi của thời gian, nhà thơ ngỡ ngàng khi hè qua thu tới, thu tới rồi thu sẽ đi, buồn chứ sao. Màu vàng tượng trưng cho mùa thu. Thu đến lá vàng rụng xuống tạo nên khung cảnh tiêu điều, vắng vẻ. Lưu Trọng Lư trong Tiếng thu đã viết rất hay:
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp lên lá vàng khô.
Nhưng màu mơ phai thì là một sáng tạo của thi nhân. Nhà thơ Xuân Diệu đã cảm nhận thật tinh tế về sắc áo ấy. Mơ phai là cái khoảnh khắc chuyển giao giữa hè và thu. Nắng đã phai bớt, nhạt bớt nhưng trời chưa lạnh. Bao lá vàng rơi dệt nên bức tranh mà thu, mùa thu đến báo hiệu sự chia li, rời bỏ, cô đơn.
Nhân vật trữ tình trong bài thơ có lẽ cũng là một linh hông cô đơn cho nên đặc biệt nhạy cảm với những dấu hiệu của sự rời bỏ, li tán:
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rủa màu canh
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.
Một bức tranh thu héo úa, tàn phai là có sức quyến rũ lạ kì.
Hơn một là bao nhiêu? Như Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam đã biết Xuân Diệu quá Tây, Xuân Diệu chịu ảnh hưởng của thơ tượng trưng của Pháp. Hơn một chỉ là cách nói tượng trưng mà thôi.
Mùa thu đến làm cho hoa rụng cành, sắc đỏ ngự trị, cây gầy guộc, mỏng manh… cảm giác buồn hiu hắt. Buồn phụ âm r như gợi tả sự sống mong manh, yếu ớt của những chiếc lá sắp rụng, sắp tàn, không cưỡng lại được: run rẩy, rung rinh.
Sắc đỏ rủa mùa xanh là sáng tạo mới của nhà thơ. Nó có giá trị biểu đạt rất đặc sắc, đồng thời cũng thể hiện cái tôi Xuân Diệu.
Quả thật, như Nguyễn Du trong Truyện Kiều đã có câu rất hay: Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Trong tâm trạng cô đơn của mình, thi nhân đã thấy Trăng tự ngẩn ngơ, một trạng thái ngẩn ngơ triền miên không dứt. Và núi cũng chìm trong sương lạnh nhạt nhoà. Các giác quan như mở ra tinh tế hơn, nhạy bén hơn.
Đã nghe rét mướt luồn trong gió.
Một sự chuyển đối giữa xúc giác với thính giác.
Đối với Xuân Diệu dường như thời gian đang tàn phá cướp đoạt sự sống. Ông như quyết đấu với thời gian, với sự tàn phai, với cái chết. Chính vì vậy, ông đã có nhiều cống hiến lớn lao cho thi ca và cho cuộc đời. Mở đầu bằng hình ảnh rặng liễu - thiếu nữ, để khi khép lại cũng vẫn là hình ảnh của thiếu nữ, Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì. Tất cả tạo nên một sự hô ứng đặc sắc: hồn thu của thiên nhiên, đất trời đã đi vào hồn người.
Nỗi cô đơn quạnh vắng của lòng người trước ngoại cảnh trải dài trong một bức tranh thiên nhiên buồn mà nên thơ nên họa. Với cảm thức mạnh mẽ về thời gian, thi nhân bộc lộ niềm tiếc nuối, lòng yêu mến, gắn bó với sự sống một trái tim luôn khao khát giao cảm với đời.
Xuân Diệu đã góp vào hồn thu muôn thuở cái tôi cá nhân tài hoa và đa tình của mình. Cảnh thu đẹp, có sức gợi là lại man mác buồn, cái buồn li tán, chia lìa. Đó cũng chỉ bởi một nỗi: lòng thi nhân buồn. Cái buồn chung của Thơ mới, của thời đại, của lòng người. Có thể nói với Đây mùa thu tới nhà thơ Xuân Diệu đã tạo nên một điệu hồn Thơ mới đặc sắc.