ĐÀN GHI TA CỦA LORCA
(Thanh
Thảo)
Theo
lí thuyết văn học liên văn bản, bất cứ văn bản nào cũng là một liên văn bản, không phụ thuộc vào việc
tác giả của văn bản có ý thức được điều đó hay không. Đọc Đàn ghi ta của Lor-ca, có thể thấy, mỗi từ, mỗi chi tiết, hình ảnh và cả hình tượng trung tâm
trong đó đều là đầu mối của một quan hệ giao tiếp nghệ thuật rộng lớn, mà nếu
thiếu tri thức về các văn bản (hiểu theo nghĩa rộng) có trước đó thì độc giả
không thể cảm nhận được, hiểu được ý nghĩa của chúng. Lor-ca là nhà thơ như thế
nào ? Đàn ghi ta của ông có cái gì đặc biệt ?
Vầng trăng, yên ngựa, bước chân
lang thang, tiếng hát nghêu ngao, bãi bắn, tấm áo choàng bê bết đỏ, giọt nước
mắt vầng trăng trong đáy giếng, lá bùa cô gái Di-gan,... là những cái gì đây ?
Đó có thể là những câu hỏi thầm vang lên trong tâm trí độc giả bình thường khi
tiếp nhận bài thơ. Nếu không chịu bỏ cuộc trên hành trình giải mã văn bản này và quyết tìm
tới những văn bản khác đã làm nền cho nó (theo sự chỉ dẫn của các câu thơ trong
bài), độc giả sẽ thực sự được đền bù. Trước mắt chúng ta lúc đó sẽ là một thế
giới thi ca chói loà của thiên tài Lor-ca, là bức tranh bi tráng về thân phận
người nghệ sĩ trong một thời đại biến động như bão táp, là vẻ đẹp lung linh của
nghệ thuật vượt lên trên mọi sự đe doạ của các thế lực bạo tàn, hung hiểm. Từ
những điều vừa thấy, nhìn ngược lại văn bản thơ đã tạo cơ hội mở rộng chân trời
hiểu biết cho mình - bài Đàn ghi
ta của Lor-ca của Thanh Thảo - ta sẽ nhận ra từ đây một sự cộng
hưởng của những khát vọng sáng tạo, một khả năng nhập cảm sâu sắc vào thế giới
nghệ thuật thơ Lor-ca, một suy nghiệm thâm trầm về nỗi đau và niềm hạnh phúc
của những cuộc đời đã dâng hiến trọn vẹn cho cái đẹp.
Trong nửa đầu bài thơ, một không gian Tây Ban Nha đặc thù,
nhất là không gian miền quê An-đa-lu-xi-a yêu dấu của Lor-ca đã được gợi lên.
Giữa không gian đó, nổi bật hình tượng người nghệ sĩ lãng du có tâm hồn phóng
khoáng, tha thiết yêu người, yêu đời, nhưng nghịch lí thay, lại không ngừng đi
theo một tiếng gọi huyền bí nào đó hướng về miền đơn độc :
những tiếng đàn bọt nước
Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt
li-la li-la li-la
đi lang thang về miền đơn độc
với vầng trăng chếnh choáng
trên yên ngựa mỏi mòn
...
tiếng ghi ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan
Tại sao tác giả lại có thể gợi lên được những điều ấy ? -
Trước hết là nhờ "đàn ghi ta của Lor-ca". Tất nhiên, ở đây ta không
nói tới một cây đàn cụ thể, dù vẫn biết Lor-ca là nghệ sĩ trình tấu rất xuất
sắc ghi ta và dương cầm. Đàn ghi ta ở đây chính là thơ Lor-ca, là bản mệnh của
Lor-ca. Đọc thơ Lor-ca, ta thường bắt gặp hình tượng một chàng kị sĩ đi mải
miết, vô định dưới vầng trăng khi đỏ, khi đen, khi rạng ngời, khi u tối, khi
nồng nàn, khi buốt lạnh,... Ta cũng thường được ngập mình trong phong vị, hương
sắc riêng không thể nào quên được của miền quê Gra-na-đa thuộc xứ
An-đa-lu-xi-a, nơi ngày xưa từng được xem là "một trong những vương quốc
đẹp nhất của châu Phi" do người ả-rập dựng nên. ở đó có những chàng hiệp
sĩ đấu bò tót khoác trên mình tấm áo choàng đỏ, có những cô gái Di-gan nước da
nâu gợi tình tràn trề sức sống, có những vườn cam, những rặng ô-liu xanh một
màu xanh huyền hoặc. Đặc biệt, ở đó luôn vang vọng tiếng đàn ghi ta - âm thanh
nức nở, thở than làm vỡ toang cốc rượu bình minh, tựa tiếng hát của một con tim
bị tử thương bởi năm đầu kiếm sắc, không gì có thể bắt nó im tiếng (ý thơ trong
bài Đàn ghi ta)... Thanh Thảo quả đã nhập thần vào thế giới thơ Lor-ca để lẩy ra và
đưa vào bài thơ của mình những biểu tượng ám ảnh bồn chồn vốn của chính thi hào
Tây Ban Nha. Nhưng vấn đề không đơn giản chỉ là sự "trích dẫn". Tất
cả những biểu tượng kia đã được tổ chức lại xung quanh biểu tượng trung tâm là
cây đàn, mà xét theo "nguồn gốc", vốn cũng là một biểu tượng đặc biệt
trong thơ Lor-ca - người mê dân ca, "chàng hát rong thời trung cổ",
"con sơn ca xứ An-đa-lu-xi-a". Cây đàn từ chỗ mang hàm nghĩa nói về
một định hướng sáng tạo gắn thơ với dòng nhạc dân gian, rộng ra, nói về một
tình yêu vô bờ và khắc khoải đối với quê hương, đến Thanh Thảo, nó đã nhập một
với hình tượng Lor-ca, hay nói cách khác, nó đã trở thành hình tượng "song
trùng" với hình tượng Lor-ca. Cây đàn cất lên tiếng lòng của Lor-ca trước
cuộc sống, trước thời đại. Nó là tinh thần thơ Lor-ca, là linh hồn, và cao hơn
cả là số phận của nhà thơ vĩ đại này. Bởi thế, trên những văn bản thơ trước đây
của Lor-ca là một văn bản mới của nhà thơ Việt Nam muốn làm sống dậy hình tượng
người con của một đất nước, một dân tộc yêu nghệ thuật, ưa chuộng cuộc sống tự
do, phóng khoáng. Hơn thế nữa, tác giả muốn hợp nhất vào đây một "văn
bản" khác của đời sống chính trị Tây Ban Nha mùa thu 1936 - cái "văn
bản" đã kể với chúng ta về sự bạo ngược của bọn phát xít khi chúng bắt đầu
ra tay tàn phá nền văn minh nhân loại và nhẫn tâm cắt đứt cuộc đời đang ở độ
thanh xuân của nhà thơ được cả châu Âu yêu quý : Tây
Ban Nha
hát nghêu ngao
bỗng kinh hoàng
áo choàng bê bết đỏ
Lor-ca bị điệu về bãi bắn
chàng đi như người mộng du
...
tiếng ghi ta ròng ròng
máu chảy
Ở trên, bài thơ của Thanh Thảo đã được (hay bị) trích theo lối cắt tỉa, phục
vụ cho việc làm tường minh các ý thơ có trong đó. Trên thực tế, Đàn ghi ta của Lor-ca có một cấu trúc đầy ngẫu hứng, với sự xô nhau, đan cài nhau, tương tác
với nhau của các văn bản (đã nói). Chính nhờ vậy, tiếng hát yêu đời của Lor-ca
được Thanh Thảo gợi lại, càng trở nên tha thiết hơn giữa tan nát dập vùi và
những ám ảnh tưởng phi lí luôn dày vò nhà thơ Tây Ban Nha bỗng trở thành sự
tiên tri sáng suốt. Sáng tạo nghệ thuật của Thanh Thảo được bộc lộ rõ trên các
giao điểm này. Những hình ảnh, biểu tượng vốn có trong thơ Lor-ca được làm mới
để chuyên chở những cảm nhận về chính thơ Lor-ca và về thân phận các nhà thơ
trong thời hoành hành của bạo lực. Câu thơ những tiếng đàn bọt nước ở đầu bài nếu được nối kết
với các câu thơ khác là tiếng ghi
ta tròn bọt nước vỡ tan và tiếng ghi ta ròng ròng - máu chảy, sẽ bộc lộ một tiềm năng ý nghĩa lớn hơn nhiều so với ý nghĩa dễ nhận
thấy gắn liền với việc diễn tả âm thanh tuôn trào, sôi động của tiếng đàn.
Tiếng đàn giống như tiếng kêu cứu của con người, của cái đẹp trong thời khắc bị
đẩy tới chỗ tuyệt diệt. Không có gì khó hiểu khi dưới ngòi bút Thanh Thảo,
tiếng đàn cũng có màu (nâu, xanh), có hình thù (tròn), có sinh mệnh (ròng ròng máu chảy), bởi tiếng đàn ở đây chính là sự cảm nhận của nhà thơ nay về tiếng đàn
xưa. Theo đó, tiếng đàn không còn là tiếng đàn cụ thể nữa,
nó là sự sống muôn màu hiện hình trong thơ Lor-ca và là sinh quyển văn hoá,
sinh quyển chính trị - xã hội bao quanh cuộc đời, sự nghiệp Lor-ca. Rồi màu đỏ gắt của tấm áo choàng,
không nghi ngờ gì, là sáng tạo của Thanh Thảo. Nó không đơn thuần là màu của
một trang phục. Nó có khả năng ám gợi một điều kinh rợn sẽ được nói rõ ra trong
khổ thơ sau : áo choàng bê bết đỏ - tức là tấm áo choàng đẫm máu của Lor-ca, của bao con người vốn chỉ
biết hát nghêu ngao niềm yêu cuộc đời với trái tim hồn nhiên, ngây thơ, trong trắng, khi bị điệu về bãi bắn một cách tàn nhẫn, phũ phàng, phi lí (câu thơ chàng đi như người mộng du có phần thể hiện sự phi lí không thể nào nhận thức nổi này). Cùng một
cách nhìn như thế, độc giả sẽ thấy những thi liệu của thơ Lor-ca (mà truy
nguyên, một phần không nhỏ vốn là thi liệu của những bài dân ca An-đa-lu-xi-a)
như hình ảnh người kị sĩ đi lang
thang, yên ngựa, vầng trăng đã thực sự được tái sinh lần
nữa trong một hình hài mới và gây được những ấn tượng mới. Các từ miền đơn độc, chếnh choáng, mỏi mòn gắn với chúng đã tạo ra một trường nghĩa chỉ sự mệt mỏi, bất lực, bồn
chồn, thắc thỏm không yên của con người khi đối diện thực sự với cái bản chất
phong phú vô tận của cuộc sống. Với kiểu tạo điểm nhấn ngôn từ của Thanh Thảo,
ta hiểu rằng cảm giác đó không chỉ có ở Lor-ca. Nó là một hiện tượng có tính
phổ quát, không của riêng ai, không của riêng thời nào, tất nhiên, chỉ được
biểu hiện đậm nét và thực sự trở thành "vấn đề" trong thơ của những
nhà thơ luôn thắc mắc về ý nghĩa của tồn tại. Gồm một chuỗi âm thanh mơ hồ khó
giải thích, dòng thơ li-la li-la
li-la xuất hiện hai lần trong thi phẩm một mặt có tác
dụng làm nhoè đường viền ý nghĩa của từng hình ảnh, biểu tượng đã được ném ra
chừng như lộn xộn, mặt khác, đảm nhiệm một phần chức năng liên kết chúng lại
thành một chỉnh thể, nhằm biểu hiện tốt nhất cái nhìn nghệ thuật của tác giả và
giải phóng bài thơ khỏi sự trói buộc của việc thuật, kể những chuyện đã xảy ra
trong thực tế. Quả vậy, dù không có sự kiện nào của cuộc đời Lor-ca được kể lại
một cách rành mạch, chi tiết, nhưng độc giả hiểu thơ không vì thế mà cho rằng
thiếu. Cái người ta thấy đáng quan tâm lúc này nằm ở chỗ khác. Đó là sự tự bộc
lộ của chủ thể sáng tạo khi ráo riết suy nghĩ về số phận đầy bất trắc của nghệ
thuật và khả năng làm tan hoà những suy nghĩ ấy trong một thứ nhạc thơ tác động
vào người tiếp nhận bằng hình thức ám gợi tượng trưng hơn là hình thức giãi
bày, kể lể kiểu lãng mạn. Tất nhiên, chúng ta có quyền cắt nghĩa tại sao lại li-la chứ không phải là cái
gì khác. Hoa li-la (tử đinh hương) với màu tím mê hoặc, nao lòng, từng là đối
tượng thể hiện quen thuộc của nhiều thi phẩm và hoạ phẩm kiệt xuất trong văn
học, nghệ thuật phương Tây chăng ? Hay đó là âm thanh lời đệm (phần nhiều mang
tính sáng tạo đột xuất) của phần diễn tấu một ca khúc, hoặc nữa là âm thanh mô
phỏng tiếng ngân mê đắm của các nốt đàn ghi ta dưới tay người nghệ sĩ ?... Tất
cả những liên hệ ấy đều có cái lí của chúng !
Ở nửa sau của bài thơ,
tác giả suy tưởng về sức sống kì diệu của thơ Lor-ca nói riêng và về sự trường
tồn của nghệ thuật chân chính nói chung, vốn được sáng tạo bằng chính trái tim
nặng trĩu tình yêu cuộc sống của các nghệ sĩ :
không ai chôn cất tiếng đàn
tiếng đàn như cỏ mọc hoang
giọt nước mắt vầng trăng
long lanh đáy giếng
đường chỉ tay đã đứt
dòng sông rộng vô cùng
Lor-ca bơi sang ngang
trên chiếc ghi ta màu bạc
chàng ném lá bùa cô gái Di-gan
vào xoáy nước
chàng ném trái tim mình
vào lặng yên bất chợt
li-la li-la li-la...
Câu thơ không
ai chôn cất tiếng đàn có lẽ đã được bật ra trong
tâm thức sáng tạo của Thanh Thảo khi ông nghĩ tới lời thỉnh cầu của Lor-ca
trong bài Ghi nhớ - lời thỉnh cầu đã được dùng làm đề từ cho bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca. Không, ở đây không có thao tác đối lập sắc lẻm của lí trí mà nhiều thi
sĩ ưa dùng trong các bài thơ "chân dung" hay "ai điệu",
nhằm làm nổi bật những tứ thơ "mới" mang tính chất "ăn
theo". Chỉ có sự đau đớn trước cái chết thảm khốc của một thi tài mãnh
liệt, mà xác bị quăng xuống một giếng sâu (hay vực ?) gần Gra-na-đa. Dĩ nhiên,
ý nguyện của Lor-ca - một ý nguyện thể hiện chất nghệ sĩ bẩm sinh hoàn hảo của
nhà thơ, nói lên sự gắn bó vô cùng sâu nặng của ông đối với nguồn mạch dân ca
xứ sở - đã không được thực hiện. Nhưng nghĩ về điều đó, những liên tưởng dồn
tới và ta bỗng vỡ ra một chân lí : không
ai chôn cất tiếng đàn và dù muốn chôn cũng không
được ! Đây là tiếng đàn, một giá trị tinh thần, chứ không phải là một cây đàn vật thể. Tiếng đàn ấy
trường cửu cùng tự nhiên và hơn thế, bản thân nó chính là tự nhiên. Nó vẫn
không ngừng vươn lên, lan toả, ngay khi người nghệ sĩ sáng tạo ra nó đã chết.
Dù thật sự thấm thía chân lí nói trên, tác giả vẫn không ngăn nổi lòng mình khi
viết ra những câu thơ đau xót hết mực, thấm đượm một cảm giác xa vắng, bơ vơ,
côi cút, như cảm giác của ta khi thấy cỏ mọc hoang đang ngao hát bài ca vắng
người giữa mang mang thiên địa. Không phải ngẫu nhiên mà trong ít nhất hai
phương án ngôn từ có thể dùng, Thanh Thảo đã lựa chọn cách diễn đạt không ai chôn cất chứ không phải là không ai
chôn được ! Đến lượt độc giả, giọt nước mắt vầng trăng cứ mãi làm ta thao thức, dù nó long lanh trong
im lặng, và hình như càng im lặng trong thăm thẳm đáy giếng, nó lại càng long lanh hơn bao giờ hết.
Từ câu đường
chỉ tay đã đứt đến cuối bài, nhịp điệu, tiết tấu của thi phẩm
không còn gấp gáp và dồn bức nữa. Nó chậm rãi và lắng sâu. Điều này tuân theo
đúng lô gích tái hiện và suy ngẫm (tạm quy về phạm trù "nội dung") mà tác giả chọn lựa. Nhưng
quan trọng hơn, nó tuân theo lô gích tồn tại của chính cuộc đời : tiếp liền cái
chết là sự sinh thành, sau bộc phát, sôi trào là tĩnh lặng, trầm tư, nối theo
sự mù loà, khủng hoảng (của xã hội loài người) là sự khôn ngoan, chín chắn,...
Trong muôn nghìn điều mà con người phải nghĩ lại khi đã "khôn dần
lên", sự hiện diện của nghệ thuật trong đời sống là một trong những điều
khiến ta trăn trở nhiều nhất. Việc quy tội, kết tội cho một đối tượng cụ thể
nào đó đã đối xử thô bạo với nghệ thuật không còn là chuyện thiết yếu nữa. Hãy
lắng lòng để chiêm ngưỡng một sự siêu thoát, một sự hoá thân. Trên dòng sông
của cuộc đời, của thời gian vĩnh cửu mà trong khoảnh khắc bừng tỉnh thoát khỏi
mê lầm, ta tưởng thấy nó hiện hình cụ thể và dăng chiếu ngang trời, có bóng
chàng nghệ sĩ Lor-ca đang bơi sang
ngang trên chiếc ghi ta màu bạc. Chàng đang vẫy chào nhân
loại để đi vào cõi bất tử. Chiếc ghi ta, cũng là con thuyền thơ chở chàng, có
ánh bạc biêng biếc, hư ảo một màu huyền thoại...
Trên thực tế, cái chết của Lor-ca là cái chết tức tưởi do bọn phát xít
Frăng-cô gây nên. Nhưng nhìn suốt chiều dài lịch sử, ta thấy Lor-ca không phải
là trường hợp nghệ sĩ đầu tiên hay cuối cùng chịu kết cục bi thương bởi các thế
lực thù địch với cái đẹp. Vậy phải chăng có thể xem những khổ nạn liên tục là
một phần tất yếu trong định mệnh của họ ? Hẳn Thanh Thảo đã nghĩ vậy khi viết
tiếp những câu thơ thật gọn nghẽ, "nhẹ nhõm" và "mênh mang"
(ta hãy chú ý tới điểm rơi cuối dòng thơ của các từ, cụm từ như đã đứt, vô cùng, sang ngang). Dù ai tiếc thương mặc lòng, đối với người nghệ sĩ như Lor-ca, khi đường chỉ tay đã đứt (đường chỉ tay như dấu ấn của số mệnh đóng lên cơ thể con người), chàng
đã dứt khoát được giải thoát. Còn nuối làm chi lá bùa hộ mệnh được xem là vật
tàng trữ những sức mạnh thần diệu mà cô gái Di-gan trao cho. Chàng, dứt khoát
và mạnh mẽ, ném nó "chìm lỉm" (chữ của Hàn Mặc Tử) vào xoáy nước hư vô, như ném trái tim mình vào lặng yên bất chợt - cái lặng yên của sự "đốn ngộ", cái lặng yên sâu thẳm, anh
minh, mà ở đó, lời nói đã tan đi trong chính nó. Chàng đã đoạt lấy thế chủ động
trước cái chết của mình. Chàng đã thắng không chỉ lũ ác nhân mà còn thắng cả
chính định mệnh và hư vô nữa. Từ điểm này nhìn lại, ta bỗng thấy câu thơ chàng đi như người mộng du ở phần trên có thêm tầng nghĩa mới. Bị lôi đến chỗ hành hình, Lor-ca vẫn
sống như người trong cõi khác. Chàng đang bận tâm đuổi theo những ý nghĩ xa
vời. Chàng đâu thèm chú ý tới máu lửa quanh mình lúc đó. Chàng đã không chấp
nhận sự tồn tại của bạo lực. Chàng chết, nhưng kẻ bất lực lại chính là lũ giết
người ! ở đây, có một cái gì gợi ta nhớ tới sự tuẫn nạn của Chúa Giê-su trên
núi Sọ. Lại thêm một "văn bản" nữa ẩn hiện tỏ mờ dưới văn bản thơ của
Thanh Thảo[1]
!...
Trong đoạn thơ cuối bài vừa phân tích, người đọc càng
nhìn thấy rõ hơn sự vững vàng của tác giả trong việc phối trí các hình ảnh,
biểu tượng lấy từ nhiều "văn bản" khác nhau vào một tổng thể hài hoà.
Tưởng không có gì chung giữa đường
chỉ tay, lá bùa, xoáy nước và cả lặng yên nữa. Vậy mà, nhờ được
"tắm" trong một "dung môi" cảm xúc có cường độ mạnh cùng sự
suy tư có chiều sâu triết học, tất cả chúng trở nên ăn ý với nhau lạ lùng để
cùng cất tiếng khẳng định ý nghĩa của những cuộc đời dâng hiến hoàn toàn cho
nghệ thuật, cũng là cho một nhu cầu tinh thần vĩnh cửu của loài người. Là sản
phẩm tinh tuý của những cuộc đời như thế, thơ ca làm sao có thể chết ? Nó tồn
tại như là hơi thở xao xuyến của đất trời. Nó gieo niềm tin và hi vọng. Nó khơi
dậy khát khao hướng về cái đẹp. Nó thanh lọc tâm hồn để ta có được tâm thế sống
an nhiên giữa cuộc đời không thôi xáo động, vĩnh viễn xáo động. Muốn mô tả nó ư
? Chỉ có thể, như Thanh Thảo, sau một thoáng mặc tưởng, bật thốt lên : li-la li-la li-la...
Để lòng mình ngân theo chuỗi âm thanh ấy, ta hiểu rằng
trong cuộc tương tranh không ngừng và hết sức thú vị giữa những cách diễn tả
đặc hữu của văn học và cách diễn tả mang tính chất ám gợi huyền hồ của âm nhạc,
cuối cùng, ở bài thơ của Thanh Thảo, cách diễn tả của âm nhạc đã chiếm ưu thế.
Điều này hiển nhiên là một sự lựa chọn có ý thức. Để nói về nỗi cô đơn, cái
chết, sự lặng yên, "lời" vẫn thường gây vướng víu, gây nhiễu. Chỉ có
nhạc với khả năng thoát khỏi dấu ấn vật chất của sự vật khi phản ánh nó, trong
trường hợp này, là phương tiện thích hợp. Tất nhiên, Thanh Thảo không phải đang
làm nhạc mà là làm thơ. Nói nhạc ở đây không có gì khác là nói tới cách thơ vận
dụng phương thức của nhạc - cái phương thức ám thị, khước từ mô tả trực quan -
để thấu nhập bề sâu, "bề xa" của sự vật. Từ
lâu, các nhà thơ tượng trưng chủ nghĩa đã hướng tới điều này. Dù không nhất
thiết phải quy Đàn ghi ta của Lor-ca vào loại hình thơ nào, ta vẫn thấy nó đậm
nét tượng trưng. Chẳng có gì lạ khi với bài thơ này, Thanh Thảo muốn thể hiện
mối đồng cảm sâu sắc đối với Lor-ca -. cây đàn thơ lạ lùng trong nền thi ca
nhân loại ở nửa đầu của thế kỉ XX đầy bi
kịch